là không được cho chúng tự do. Không lâu sau đó thì có thư của Bobby. Nàng đọc cho con gấu nghe (Nó đã học được bài học mới sau lần sai phạm đó và biết cách ngoan ngoãn, vâng lời hơn bao giờ). Và không bao lâu, Bobby được về phép lần đầu. Da rám nắng, khỏe mạnh, cường tráng, trông thật thích mắt. Miriam ước sao con gấu trông thấy nó. Tận dụng những ngày phép ngắn ngủi, Bobby sửa sang nhà cửa. Chỉ còn một hôm nữa thôi. Nó đứng nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ nhà bếp. Miriam đến cạnh nó và nó nhìn nàng, vẻ mặt đăm chiêu. - Mẹ à, con thấy bọn nhóc chạy chơi trong vườn nhà mình hôm qua đấy. Hàng rào có lẽ hư hết rồi. Miriam gật đầu : – ừ, nó cũ quá rồi. Bobby đứng dậy, nhíu mày : – Con không thích thế, con không muốn tụi nó tới đây phá phách. Để con lên tỉnh mua ít gỗ và dây thép gai … Nó làm việc suốt ngày hôm đó. Luôn ngày hôm sau, cho đến khi sắp tới giờ lên đường. Mồ hôi đầm đìa nhưng vẻ mặt mãn nguyện. - Con có gắn những tấm bảng “Cấm vượt qua” ở quanh vườn. Hàng rào giờ thì chắc chắn lắm mẹ ạ. Cứ để tụi nhóc leo qua hàng thép gai đó coi ! Nó đặt tay lên vai mẹ nó : – Mẹ, chẳng bao lâu nữa con sẽ về … Nhưng nó không bao giờ trở về. Nàng đang ở thư viện thì điện tín tới. Mọi người đều thương nàng. Nhiều người xin đưa nàng về nhưng nàng từ chối tất cả. Nàng muốn đi bộ một mình trên con đường quen thuộc. Nàng cũng không lộ vẻ gì cho tới khi đến trước chuồng gấu. Lúc đó, nàng mới quỵ xuống sàn xi măng lạnh lẽo. Nàng khóc như mưa, khóc thỏa thuê cho nguôi nỗi đau. - Bobby chết rồi … nghe không, gấu ? Bobby … chết rồi! Qua hàng rào lưới sắt, những ngón tay móng dài từ lâu không cắt thò ra như muốn đánh nàng. Những giọt nước mắt lăn dài trên bộ râu rậm. Con gấu nhỏ lệ cho nỗi đau mất con hay cho sự thù hận cuộc đời ? Nào ai biết ? Đời sống vẫn tiếp tục trôi. Nỗi đau nguôi ngoai dần trong lòng Miriam. Nàng tiếp tục công việc ở thư viện. Có Bobby hay không, nàng vẫn phải nuôi lấy nàng và con gấu. Tiền tử của Bobby nàng để nguyên không đụng đến. Một ngày nào đó, khi không làm việc nữa, nàng sẽ cần đến nó. Cuộc sống trong căn nhà đó đều đặn trôi qua theo thời khóa biểu không thay đổi. Con gấu đã hoàn toàn đáng tin. Vào những ngày cuối tuần đẹp trời, Miriam đã dám mở cánh cửa phía trên hầm, tức là cái nắp trên mặt đất ở ngoài vườn, cho con gấu được hưởng khí trời trong lành. Và nàng sung sướng khi thấy nó đứng bật dậy, lại ngay dưới cửa sổ, hít những hơi dài của không khí ngoài bầu trời tự do. Đôi lúc nó với tay nhảy lên nhưng vô ích vì ô cửa khá cao lại còn một tấm lưới sắt chắc chắn như tấm lưới cửa chuồng. Đôi lúc nó nhón chân, cố rướn cổ nhìn ra ngoài nhưng vô vọng. Nàng thường đem cho nó những bó hoa rừng. Nó thích lắm, vùi đầu vào bó hoa hít lấy hít để. Nàng vui thú làm những việc đại loại như thế vì nàng thật sự đã thích nó. Càng ngày, sự tồn tại của nàng trên cõi đời này càng là nguồn an ủi lẫn sự sống còn của nó. Năm tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua. Dĩ nhiên, cũng có những lúc khó khăn, chẳng hạn như những lúc con gấu ốm nặng. Thật là một cực hình cho Miriam khi nó kêu gào đòi mời bác sĩ. Rồi nó hiểu rằng chuyện đó không thể có được. Nàng không biết làm gì ngoài việc cầu nguyện. Thế mà lời cầu nguyện của nàng được đáp lại. Con gấu hạ cơn sốt, không rên rỉ nữa, rồi đỡ dần. Lại có những lúc chính nàng ốm. Vào một mùa thu nọ, nàng ngã bệnh trong những ngày phép. Nàng ốm nặng đến nỗi không thể tự đến bác sĩ được. Cũng không có cách nào gọi bác sĩ đến nhà. Mà có gọi cũng không được dù nàng là chủ nhà nhưng lại là người giữ con gấu trong chuồng. Hình như nàng cũng đang bị giam cầm trong một loại ngục tù. Cơn sốt dữ dội hành hạ nàng nhiều ngày. Cái duy nhất giúp nàng không gục ngã là tiếng kêu thống thiết của con gấu. Bỏ mặc cho nó chết thì dễ quá .. nhưng nàng không thể … con gấu đói … nó cần có nàng… Vì thế, nàng gom hết sức lực để sống và để nhìn thấy con gấu vục mặt vào những dĩa thức ăn mà với cố gắng phi thường, nàng đem xuống cho nó. Nàng vui sướng thấy nó ăn ngon lành, đó là phần thưởng xứng đáng cho nỗ lực đáng thương của nàng. Có lẽ chuyện ghê gớm nhất đã xảy ra là khi chảo mỡ bị bắt lửa trên bếp. Trong cơn sợ hãi điên cuồng, nàng đã dập tắt được ngón lửa. Tay nàng bị bỏng nhiều chỗ. Không phải sự đau đớn làm cho nàng sợ. Điều làm nàng sợ là ngọn lửa lan qua đồ đạc. Con gấu sẽ bị thiêu sống. ý nghĩ đó làm nàng phát ốm. Nàng vắt óc tìm một giải pháp nếu chuyện đó xảy ra thật. Nàng chợt nhớ tới Harry, người chồng cũ của nàng (nàng quên hắn nhiều năm qua) có một khẩu súng lục. Nàng lên lầu, tìm thấy nó trong tủ cũ của Harry. Nàng thấy an tâm. Vật này sẽ đem đến cho con gấu cái chết nhanh chóng, không đau đớn. Một ngày nọ, lò sưởi bị sụp. Việc sửa chữa nó không trong khả năng của nàng. Thế là cà phê cho con gấu đêm đó được pha thêm thuốc ngủ. Ngày hôm sau, khi nó đang say ngủ vì thuốc, nàng lấy khăn trải giường phủ kín cái chuồng, kê những đồ đạc không dùng sát cửa chuồng rồi gọi thợ xây. Những người thợ không hề biết chỉ cách đó vài thước có một sinh vật đã từng là người, đang ngủ say. Nhiều năm nữa trôi qua. Mùa hè năm đó, tôi chẳng có việc gì, hơn nữa, tôi mới mười sáu tuổi. Cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi cách đó vài tháng. Tôi đi chơi với ông nội tôi ở Wilton Falls. Ông nội tôi là một quan tòa. Ông thường dùng túp lều nhỏ ở đó vài lần vào mùa thu trong những cuộc săn bắn nhưng năm nay ông đi sớm cùng tôi. Có lẽ ông nghĩ rằng thú câu cá và những trò chơi trong rừng sẽ tốt cho tôi, giúp tôi quên đi chuyện bất hạnh. Tôi ở trong rừng cả ngày hôm đó, chỉ có mình tôi. Khi tôi đi ngang qua khu vườn có hàng rào bao quanh của gia đình Winters, lúc đó đã mục nát. Tôi đạp thử vào dây thép gai. Nó bung ra. Nhanh nhẹn, tôi nhảy qua và rơi vào khu vườn im lìm. Một ngôi nhà cổ kính có vẻ tiêu điều hiện ra trước mặt tôi. Tôi ngạc nhiên. Có ai trong đó không nhỉ ? Có lẽ không vì trông có vẻ hoang phế quá. Tôi đi loanh quanh dò xét và tôi bỗng thấy một cái nắp hầm bằng gỗ đã mục trên bãi cỏ sau nhà. Trong hầm tối thui. Giây lát sau, tôi mới nhận ra có ánh đèn leo lét. Thẳng ngay bên dưới có một cái gì trông giống như cái chuồng. Có cái gì thù lù trong đó. Một cái bóng ? Không, hình như nó cử động. Thình lình, tôi thấy một đầu tóc rối bù, một cặp mắt trắng dã, thất thần, ghê rợn mà tôi chưa bao giờ trông thấy. Tim tôi như muốn rớt ra ngoài. Không thể tin được ! Tôi cứng người như thể bị cặp mắt đó giữ chặt.. Cái đầu bờm xờm quay đi và tôi thoát ! Tôi chạy, chạy như điên giữa ánh nắng gắt của buổi trưa hè, trên bãi cỏ của khu vườn ma quái. Nhảy qua những dây thép gai, mặc cho những gai nhọn xé rách áo quần, da thịt. Tôi chạy chậm dần khi gần đến túp lều của ông tôi. Tôi cảm thấy xấu hổ vì tôi chẳng còn bé bỏng gì, mười sáu tuổi rồi cơ đấy ! Thế mà chạy như thỏ … nhưng hình ảnh đôi mắt đó hiện lại trong đầu làm tôi cứ toát mồ hôi. Ông tôi đang lúi húi bên bếp khi tôi vào. - Cháu đã về đấy à … ông đang không biết cháu ở đâu … sắp ăn rồi… Tôi đứng im, lưng dựa cửa, thở dốc : - Ông ơi … Cố trấn tĩnh, nhưng giọng tôi cứ run. Ông tôi quay lại. Mắt ông loang loáng. - Chuyện gì vậy cháu ? Sao cháu hoảng hốt vậy ? Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh nhưng không được. - Ông ơi, ai sống trong ngôi nhà ở bìa rừng kia vậy ? Ông tôi nhíu mày. - ở bìa rừng … à … nhà Winters … có chuyện gì vậy ? - Cháu vừa ở đó về, cháu thấy … - ở đó ? Xung quanh có hàng rào mà ? Cháu không leo rào vào nhà người ta đấy chứ ? - Nhưng hàng rào thép gai mục nát hết rồi … cháu không thấy có bảng cấm. – à, có lẽ bị mất rồi … nhưng ở đây ai cũng biết đó là khu vực của gia đình Winters. - Nhưng cháu không biết. Cháu nhìn vào cửa một nắp hầm … có cái gì trong đó giống như cái chuồng … có một người đàn ông … Ông tôi kéo một cái ghế lại bên bàn, ngồi xuống ôn tồn : - Cháu kể đầu đuôi cho ông nghe nào … cháu nói cái gì ? Cái chuồng? Một người đàn ông? Tôi kể lại. Ông tôi có vẻ không tin. - Cháu thấy thật chứ ? Không tưởng tượng chứ? Ai cũng biết bà Winters sống ở đó một mình. Cuộc đời bà ta thật bi thảm. Chồng bỏ, con trai chết trận. Ông không muốn những tiếng đồn không tốt về bà ta lan khắp nơi do cháu của ông bịa ra, điều đó sẽ xúc phạm ghê gớm đến bà ấy. - Không, cháu nói thật mà ! Ông đến mà xem … Có lẽ lời lẽ thành khẩn của tôi làm ông tôi ngạc nhiên. Ông đứng dậy. - Được, đi, nhưng ông không thích trò này chút nào. Ông tin chắc cháu chỉ tưởng tượng. Đêm đó, cả tỉnh Wilton bàng hoàng. Cảnh sát cưa ổ khóa cho Harry ra ngoài bầu trời tự do. Giờ đây, hắn đã là một ông già mắt kém, chân run. Người nữ quản lý thư viện dịu dàng kia được đưa vào một “nhà bảo vệ”, lời yêu cầu duy nhất của nàng là “con gấu” phải được chăm sóc cẩn thận. Khi người ta hứa sẽ trông nom hắn, nàng mới chịu đi. Thật ra, cả hai đều được đưa đến nhà thương điên của tỉnh. Cả tỉnh ồn ào cho đến hai tuần sau. Báo chí địa phương đăng những hàng tít lớn : “Người chồng bị nhốt trong cũi 30 năm” Bên dưới hình tôi, họ viết : “Cậu bé dám nhìn vào ngục tối của mụ phù thủy” Dưới hình của Harry : “Ông lão bị nhốt trong cũi 30 năm” Và dưới hình Miriam : “Mụ phù thủy của tỉnh Wilton Falls. Mụ biến chồng mình thành một con gấu”. Đó là chuyện rắc rối cho tôi. Tự nhiên, tôi trở thành một vị anh hùng! Nhưng khi nhìn kỹ những bức ảnh của ông bà Winters, tôi thấy lạ lạ. Cả hai đều có nét mặt như con nít khi bị dẫn đi. Miriam được đưa vào nhà thương điên của quốc gia. Nhưng xử trí với Harry lại là cả một vấn đề. Những bác sĩ tâm thần chẳng làm gì được. Ông ta không nói năng gì. Sau cùng, họ kết luận rằng trí não ông ta trở nên đần độn vì những năm tháng dài bị giam trong chuồng. Ông ta hoàn toàn vô hại, có thể được trông nom riêng. Nhưng thế nào là “trông nom riêng”? Người ta phản đối việc giam lỏng ông ta ở một nơi vì họ cho rằng những năm còn lại trong đời, ông ta đáng được hưởng “tự do” như … Người ta bàn bạc nhiều về việc ấy. Cuối cùng, Harry được trả về nhà cũ. Một nhóm người xung phong được thành lập, thay phiên hàng ngày, từng người đến trông nom ông già, đem thức ăn đến, đem áo quần ông ta đi hiệu giặt … Nhiệm vụ của họ cũng có cả việc “nhân hóa”ông ta. Nhưng họ thất bại hoàn toàn vì Harry chẳng màng nói chuyện với Bất Cứ ai. Thế sự tự do của Harry có ý nghĩa gì đối với ông ta trong những ngày cuối cùng của cuộc đời ông ấy ? Cũng lại tôi khám phá ra lần nữa. Bất hạnh thay ! Một đêm tháng tám nóng bức, sáu tuần sau khi ông ta được thả về nhà cũ, tôi trở lại nơi đó, quyết định ghé qua nhà để coi ông ta ra sao. Khi tôi đến thì căn nhà tối đen trừ ánh đèn yếu ớt hắt lên từ dưới tầng hầm. Tôi nhớ lại những lời đồn là căn nhà không bị xáo trộn một thứ gì, không một đồ đạc gì được đụng đến. Họ nói … ngay cả giường ngủ cũng không có ai nằm. Phải chăng sau những năm ấy, Harry chỉ có thể ngủ ngon giấc trong cái chuồng cũ của ông ta? Có phải ông ta trở lại đó hàng đêm? Rón rén, tôi bò đến bên nắp hầm. Qua ánh sáng yếu ớt, tôi nhận ra cái chuồng. Kế bên cửa chuồng là cái ghế đu mà Miriam vẫn ngồi. Ngay sau đó, tôi nhận ra cái bóng bên cạnh là Harry. Ông ta ngồi trên sàn, cằm gác lên tay ghế. Tôi ngạc nhiên … có một hình ảnh mơ hồ lãng đãng trong đầu, tôi không nhớ ra, bất chợt nó hiện rõ. Trong phòng ngủ của ông nội tôi có một bức tranh tựa đề “Kẻ than thở của người chăn cừu”. Đó là một bức tranh vẽ hình một con chó u sầu ủ ê nằm cạnh quan tài của chủ nó vừa chết, một người chăn cừu. Sự liên tưởng hình ảnh đó với cảnh tượng dưới kia làm đau nhói tim tôi. Tôi không thể nhìn thêm nữa. Nhưng khi tôi sắp đứng dậy thì cái bóng khốn khổ kia cử động. Cái đầu rối bù ngước lên, miệng há ra. Một tiếng gào ma quái, rùng rợn. Tôi đưa tay bịt chặt tai lại. Nhưng tôi vẫn nghe. Nó khóc, khóc lớn hơn. Tiếng khóc xé ruột, đau buốt tim gan, tiếng khóc khao khát, tiếng khóc ước ao của một con gấu đã được thuần hóa đòi lại người chủ dịu hiền của nó. Tôi bỏ chạy. Khi thoát khỏi khu vườn ma quái đó, tôi chạy như kẻ mất hồn dưới ánh trăng. Lần này tôi cũng bị rượt đuổi bởi sự khủng khiếp. Nhưng sự khủng khiếp lần này do chính tôi gây ra và tôi biết mình không bao giờ thoát được. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy Harry nằm chết trong chuồng. Họ nói do bệnh tim. Sau đó tôi thường thấy những cơn ác mộng trong giấc ngủ. Có lẽ tôi la hét nhiều, nói nhảm nhiều. Vì thế, một sáng nọ, lúc ăn điểm tâm, ông tôi bảo tôi : - Theo ông thì cháu không nên có mặc cảm tội lỗi gì về việc ấy. Nó phải như thế thôi. Tôi gật đầu : - Vâng, cháu hiểu … Nhưng tôi vẫn sống như kẻ trong mơ. Ông tôi lo lắng cho tôi hơn. - Đã đến lúc phải xóa tan cái bóng đen trong đầu cháu rồi đấy. Ông sẽ đưa cháu đến thăm bà Miriam. Tôi đi một cách miễn cưỡng. Nhưng cuộc viếng thăm lại hóa tốt. Bà Miriam vui thích khi có bạn, bà trò chuyện thật vui vẻ. Bà đã biết CON GấU của bà đã chết. Bà nói rằng bà buồn lắm nhưng bà nói thêm như một triết gia là dù sao nó cũng đã quá già. Rồi thật bất ngờ, bà nói nếu Nó còn sống và còn ốm lần nữa, bà sẽ cho nó ngủ mãi mãi. Ông tôi liếc nhìn tôi đầy ngụ ý. Rõ ràng, tôi chẳng cần thêm chứng cớ gì để biện minh cho việc tôi tố giác bà Miriam là sai về … mặt nhân đạo. Theo ông tôi thì cuộc viếng thăm đó thật tốt đẹp. Nhưng theo tôi, ở măt khác nó ngược lại hoàn toàn vì bà Miriam là người tử tế, tốt bụng. Bà nói trông thấy tôi, bà nhớ đến con trai bà. Bà mong tôi đến thăm bà thường xuyên. Thật ngạc nhiên, tôi nhận lời sẽ làm vui lòng bà. Tôi giữ lời hứa. Phải đó là cách xoa dịu mặc cảm tội lỗi của tôi? Vì tôi đã phá vỡ cuộc sống thích hợp của vợ chồng họ? Tôi không biết, nhưng tôi biết một điều là trong những cuộc trò chuyện với bà ấy, tôi đã HIểU TấT Cả những nguyên nhân dẫn đến sự cầm tù Harry. Tôi nói với ông tôi : - Bà ấy không hẳn là điên đâu, không hoàn toàn điên, trừ việc CON GấU … chính Harry đã gây nên chứng điên cho bà ấy … Ông tôi nhìn tôi thở dài : - Vậy là cái bóng đen đó vẫn còn lởn vởn trong đầu cháu ! Miriam được đưa về tỉnh, không phải ở nhà thương điên nữa. Thà vậy đi, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm. Tôi vẫn đến thăm bà ấy nhưng thưa dần. Rồi tôi tốt nghiệp đại học, đi làm, lập gia đình, dọn đi xa. Những cuộc thăm viếng giờ chỉ còn là những thư từ, những thiệp mừng năm mới và bây giờ … Tôi nhìn lại bức thư trong tay. Vậy là từ đây chẳng còn viết thư cho bà ấy nữa. Chẳng còn ân hận nữa. Miriam đã trả xong món nợ của bà cho xã hội và xã hội đã vừa lòng. Về phần tôi, RIÊNG TÔI, tôi ao ước được sống lại những ngày hè năm đó, được sống lại vào đúng cái lúc tôi nhìn vào cặp mắt của Harry. Lần này, tôi sẽ nhìn vào cặp mắt gần lòa của ông ấy và sẽ lặng lẽ bỏ đi.