gì cả…Ông không có quyền giữ tôi lại đây…Buông tôi ra. -Ông có đến gặp ông Dwerrihouse ở ga Blackwater không? Lời tố cáo ông hoặc là thật hoặc là giả. Nếu thật thì ông sẽ có lợi hơn nếu cung khai hết những điều ông biết ra đây để xin lượng khoan hồng của hội đồng. Ông phó bí thư vặn vẹo hai bàn tay trong một nổi sợ hãi đau đớn. Ông ta kêu lên: -Tôi ở xa. Lúc đó tôi ở xa cả 200 dặm kia mà. Tôi không biết gì về việc đó cả. Tôi không có gì phải cung khai cả. Tôi vô tội! Tôi xin Chúa hãy chứng giám sự vô tội của tôi. Ông chủ tịch hỏi: -Cách xa 200 dặm. Ông nói gì thế? -Tôi ở Devonshire. Tôi được nghỉ phép ba tuần. Tôi đã xin với ông Hunter. Ông Hunter biết là tôi được nghỉ phép ba tuần mà. Suốt thời gian đó tôi ở Devonshire. Tôi có thể chứng minh là tôi dã ở Devonshire. Thấy thái độ của ông ta sợ hãi. Nói năng không rõ ràng và vẽ lo lắng thái quá, các giám đốc bắt đầu xì xầm với nhau và một người lặng lẽ đứng dậy bảo anh tùy phái đứng canh cửa. Ông chủ tịch lại hỏi: -Việc ông đã ở Devonshire thì có liên quan gì đến vấn đề này? Ông đã ở Devonshire khi nào? Ông bí thư đáp: -Ông Raikes nghỉ phép hồi tháng 9, khoảng vào lúc ông Dwerrihouse bỏ đi mất. -Tôi chẳng hề biết là ông ấy đã đi mất mãi cho tới khi tôi nghỉ phép về. Ông chủ tịch nói: -Điều đó để sẽ xét lại. Tôi sẽ giao việc này lại cho cảnh sát ngay. Còn bây giờ thì, ông Raikes, là một chưởng lý và đã từng xử những vụ như thế này, tôi khuyên ông không nên chống cự mà hãy thú tội lúc còn kịp thời. Còn về người đồng lõa với ông… Con người sợ hãi kia quỵ xuống hai đầu gối và kêu lên: -Tôi không có đồng lõa nào cả, nhưng xin hãy khoan hồng cho tôi. Hãy tha mạng sống tôi, tôi sẽ khai hết tất cả. Tôi không có ý định hại ông ấy. Tôi không có ý làm đau một sợi tóc trên đầu ông ấy. Chỉ xin hãy khoan hồng cho tôi và tha cho tôi. Ông chủ tịch đứng dậy, tái mặt và đầy khích động. Ông thảng thốt nói: -Trời đất ! Điều bí ẩn khủng khiếp gì đây? Ông muốn nói gì chứ? Jeff nói: -Còn gì phải hỏi nữa, chắc chắn như Chúa trên trời là án mạng đã xảy ra. -Không. Không. Không. Raikes thét lên, vẫn quỳ và co rút người như một con chó săn bị đánh đập. -Không phải sát nhân. Không một bồi thẩm đoàn nào có thể nói đây là một vụ cố sát được. Tôi tưởng chỉ làm ông ấy bất tỉnh thôi. Tôi không hề có ý làm hơn như thế. Ngộ sát. Ngộ sát. Không phải cố sát. Kinh hoàng vì sự tiết lộ không ngờ này, ông chủ tịch đưa tay bụm mặt và yên lặng trong ít giây. Cuối cùng ông nói: -Con người khốn khổ kia. Ông đã tự tố cáo mình ra rồi. -Ông bảo tôi hãy cung khai. Ông khuyên tôi hãy nhờ lượng khoan hồng của hội đồng. Ông chủ tịch đáp: -Ông đã thú ra một tội mà không hề một ai nghi ngờ cho ông cả. Một tội mà hội đồng nầy không có quyền xử phạt hay tha thứ. Tôi chỉ có thể khuyên ông nên nộp mình cho luật pháp, nên nhận tội và đừng giấu giếm gì cả. Ông đã làm việc đó hồi nào? Con người phạm tội đứng lên, nặng nề dựa vào bàn. Câu trả lời của ông ta thốt ra một cách do dự, giống như lời nói của một người đang mơ ngủ. -Vào ngày 22 tây tháng 9. Vào ngày 22 tây tháng 9 ! Tôi nhìn Jeff và Jeff nhìn tôi. Tôi nghe mặt mình tái đi trong một cảm giác ghê sợ và ngạc nhiên. Tôi thấy mặt Jeff bổng tái nhợt và cặp môi cũng thế. Anh thì thào: -Chúa ơi ! Vậy thì anh đã thấy gì trên xe lửa? Câu hỏi này không được giải đáp cho đến nay. Tôi đã không thể trả lời được. Tôi chỉ biết rằng người tôi gặp giống hệt như người bị giết, cái người mà thân xác đã nằm khoảng mười tuần lễ dưới một đống cành cây khô và lá mục, dưới đáy một cái hố rác vắng vẻ ở giữa đường từ Blackwater đến Mallingford. Tôi biết rằng người đó đã nói, đã đi đứng và đã nhìn giống y như cái xác kia đã nói, đã đi đứng và đã nhìn khi còn sống. Tôi biết rằng tôi đã được nghe kể những điều, những công chuyện làm ăn mà tôi không thể nghe biết được bằng cách nào khác. Tôi cũng biết rằng tôi đã được hướng dẫn cho thấy hình ảnh trên sân ga để dẫn dắt tôi đến việc xác nhận lý lịch của kẻ sát nhân, rằng tôi là một dụng cụ thụ động được dùng để mang lại công lý sau cùng. Những điều này tôi không thể nào giải thích được. Về hộp xi-gà thì theo cuộc điều tra tôi được biết, toa xe mà tôi đã đi chiều hôm đó đến Clayborough đã không được dùng đến trong nhiều tuần lễ mà cũng là toa xe mà ông Dwerrihouse đáng thương đã đi lần cuối cùng. Hẳn là ông ấy đã đánh rơi và nó đã nằm đó không ai thấy mãi đến khi tôi lượm được. Về chi tiết vụ án mạng tôi không cần phải dài dòng. Những ai muốn biết rõ từng chi tiết có thể lục xem bảng thú tội của Augustus Raikes trong hồ sơ lưu của báo Times năm 1856. Chỉ cần tóm tắt như sau: Ông phó bí thư biết đến dự án thiết lập đường hỏa xa mới, đã theo dõi từng bước cuộc thương lượng và quyết định đón đường ông Dwerrihouse để cướp số tiền 75.000 bảng Anh rồi trốn sang Mỹ. Để thực hiện ý định, ông ta đã xin nghỉ phép vài ngày trước thời gian ấn định cho vụ trả tiền, và đã ghi tên giữ chổ trên một tàu hành khách xuyên Đại Tây Dương sẽ khởi hành ngày 23 tây. Mang theo một bình dưỡng khí cá nhân ông ta đến Blackwater để chờ đợi nạn nhân của mình. Ông ta đã gặp nạn nhân trên sân ga với một bức điện giả của hội đồng như thế nào. Đã đề nghị hướng dẫn nạn nhân theo một đường tắt ngang qua các cánh đồng để đến Mallingford như thế nào. Khi đến một nơi vắng vẻ đã đập nạn nhân bằng bình dưỡng khí và giết chết ông ta như thế nào. Khi nhận ra việc mình đã làm, liền kéo xác nạn nhân đến một hố rác khuất nẻo như thế nào và đã ném xác xuống đó rồi chất cành cây và rác rưởi lên trên. Lạ thay, tên sát nhân sau khi thi hành xong thủ đoạn lại không dám rời nước. Hắn nói rằng không có ý định giết người mà chỉ định đập bất tỉnh để cướp của, nhưng khi thấy nạn nhân đã chết hắn không dám tẩu thoát vì sợ kéo mọi nghi ngờ về phía mình. Hắn biết nếu chỉ là một tên cướp của hắn sẽ trốn an toàn ở Mỹ, nhưng là một tên sát nhân thì không thể nào tránh khỏi bị săn đuổi và đem ra công lý. Vì vậy hắn đã xin gạch tên trên chuyến tàu và trở về văn phòng như bình thường sau khi mãn phép, cất dấu số tiền cướp để chờ một dịp thuận tiện hơn. Trong khi đó hắn vô cùng khoan khoái thấy ông Dwerrihouse bị mọi người cho rằng đã tẩu thoát với số tiền, nhưng không ai biết bằng cách nào. Dầu có cố sát hay không, Augustus Raikes cũng đã đền tội ác của mình và bị treo cổ ở nhà giam Bailey vào giữa tháng giêng 1857. Ai muốn được nhìn rõ ông ta (làm bằng sáp) có thể đến xem “Căn phòng khủng khiếp” bất cứ lúc nào tại phòng trưng bày của bà Tussaud ở đường Baker. Tại đó sẽ thấy ông ta đứng giữa đám các ông các bà phạm tội ác, mặc bộ đồ nỉ cắt sát mà ông ta đã mặc ngày gây án và cầm trên tay cái tang vật đã dùng để giết người. Xong ngày 24 tháng 2, 1983 Hoàng_Yến