tay ra định xoa lên đầu nó, ai dè con mèo trợn trừng mắt nhìn anh với vẻ hung hãn, rồi nghiến răng nghiến lợi kêu thét lên, khiến La Phi phải rụt vội tay lại. “Con mèo này xấu tính lắm, rất ít khi nó cho người lạ động vào.” –Mông Thiếu Huy giải thích. Nhìn thấy cảnh này, ông Hồ không nhịn được cười: “Người thành phố các cậu thật chẳng biết kiêng kị gì cả, cái giống mèo đen này rất mất trật tự, thế mà còn đem nó đi theo.” “‘Mất trật tự’ trong tiếng địa phương nghĩa là ‘không may mắn’.” –Mông Thiếu Huy giải thích cho La Phi hiểu. Ông Hồ gật đầu tán thành, rồi quay sang Mông Thiếu Huy: “Chàng trai, cậu cũng nghe hiểu được cả tiếng địa phương ở đây cơ à?” “Không chỉ nghe hiểu được, mà cháu còn nói được nữa.” –Mông Thiếu Huy nói giọng địa phương giống hệt ông Hồ, mọi người trên thuyền ai nấy đều lấy làm ngạc nhiên về khả năng ‘ngoại ngữ’ của cậu. “Chàng trai, cậu đã từng sống ở đây rồi à?” –ông Hồ hỏi với vẻ ngạc nhiên. Mông Thiếu Huy lắc đầu vẻ hoang mang, đáp: “Cháu cũng không biết nữa.” Câu trả lời của cậu khiến mọi người đều cảm thấy kì lạ. Vốn là người nhanh nhảu, ông Hồ buột miệng: “Đã từng thì bảo là đã từng, chưa từng thì bảo là chưa từng. Không biết nghĩa là sao?” Im lặng trong giây lát, Mông Thiếu Huy nhỏ nhẹ nói: “Cháu bị mất trí nhớ.” “Thế em đến đây là để tìm kiếm một cái gì đó đúng không?” –xâu chuỗi với sự việc tối qua, bằng trực giác của mình La Phi lập tức nhận ra điều gì đó. Mông Thiếu Huy gật đầu: “Em chẳng hề nhớ những gì đã xảy ra trước khi em lên bẩy tuổi. Em đến là để tìm lại những mảnh vụn ký ức đã bị đánh mất, bức thư này là manh mối duy nhất mà em có được.” Bằng suy luận nhạy bén của mình, La Phi nhanh chóng tìm ra vài điểm nghi vấn: “Dù là em bị mất trí nhớ, nhưng những chuyện xảy ra trước đó thì bố mẹ em phải biết chứ, họ không nói cho em biết sao?” “Trong kí ức của em, từ trước tới giờ đều không thấy có mẹ, còn bố thì chẳng thấy ông nhắc gì đến những chuyện trước đây cả. Ngay cả khi em hỏi, ông cũng không bao giờ trả lời. Tuần trước bố em mất trong một vụ tai nạn. Trong lúc sắp xếp đồ đạc mà ông để lại em phát hiện ra bức thư này, nên em đã tìm đến đây.” –Mông Thiếu Huy nói vẻ yếu ớt, vì đối với cậu cho dù là việc không có mẹ từ khi còn nhỏ hay việc mới mất bố gần đây, thì đều là những câu chuyện đau lòng. Nghe Mông Thiếu Huy nói vậy, La Phi không khỏi hiếu kì: “Nội dung bức thư đó như thế nào, em cho tôi xem được không?” –do dự trong giây lát, anh đánh bạo đưa ra lời đề nghị hơi tế nhị này. Có thể là do cảm kích việc được giúp đỡ hôm qua, cũng có thể là do tin tưởng vì La Phi là cảnh sát, nên Mông Thiếu đã gật đầu đồng ý ngay mà không hề suy nghĩ nhiều, cậu thò tay rút bức thư từ trong túi ra đưa cho La Phi. Bên trong phong bì, một vài chỗ trên giấy thư đã bị ố vàng, nội dung thư vỏn vẹn chỉ có hai dòng chữ: “Đã nhận được thư gửi đến, được biết cuộc sống của hai cha con hiện nay vẫn ổn, tôi rất lấy làm vui. Số thuốc anh cần, tôi sẽ gửi cho anh sớm nhất có thể.” La Phi đọc đi đọc lại, vẫn không phát hiện ra manh mối gì. Anh đưa trả bức thư cho Mông Thiếu Huy, rồi hướng về phía bác lái ở mũi thuyền: “Anh Hồ, anh sống trên đảo bao nhiêu năm rồi?” “Năm chục năm rồi, cả đời người!”- ông Hồ nói với vẻ đầy tự hào. “Thế trước đây trên đảo có người nào tên là Mông Ái Quốc không? Ông ấy có một cậu con trai, sau đó hai người họ cùng rời khỏi đảo.” “Mông Ái Quốc?” –ông Hồ cúi đầu suy nghĩ, “Chả nhớ nỗi nữa, vả lại mấy năm nay số người rời đảo nhiều quá, nhiều người trong số họ tôi cũng không quen.” La Phi gật đầu vẻ đồng cảm, cứ theo như tài liệu mà anh thu nhập được thì đảo Minh Trạch có diện tích gần tám mươi cây số vuông, trên đảo có đến hàng ngàn người sinh sống rải rác, dù là một “đảo dân” lâu năm như Ông Hồ, cũng không thể nào biết hết được tất cả mọi người. Trong mắt của Mông Thiếu Huy lóe lên một tia thất vọng, cậu đưa mắt nhìn ra mặt biển xa xa, rồi chuyển sang một chủ đề khác: “Cảnh sát La Phi, anh hãy nói về mình đi, tại sao anh lại đến hòn đảo này?” La Phi cười: “Tôi bị quảng cáo thu hút, nghe danh nên đến đây chơi.” “Nói đùa.” –ông Hồ lắc đầu vẻ không tin, “Đảo này chỉ đến chơi vào mùa hè mới vui, chứ đến vào mùa lạnh thì có vị gì, chắc chắn là cậu không nói thật.” “Chính vì người khác cảm thấy vô vị, nên tôi mới đến. Tôi thích cái cảm giác chỉ có một mình, nếu đông người quá thì anh chẳng thể trông thấy gì cả.” –La Phi vừa nói vừa rút trong túi ra một tờ giấy, “Xem này, Dốc quỷ ám, tôi đến cũng là vì cái tên gọi này.” “Dốc quỷ ám?” –Mông Thiếu Huy bị thu hút bởi cái tên nghe rặt mùi ma quỷ này, cậu cầm lấy tờ giấy từ tay La Phi, ngắm nghía thật kĩ. Đây là tờ quảng cáo của một công ty du lịch, giới thiệu điểm đến du lịch của huyện Hoàng Bình, trong đó có một đoạn dài dành cho nơi có tên là “Dốc quỷ ám”. “Dốc núi hoan hồn nằm trên đảo Minh Trạch thuộc địa phận huyện Hoàng Bình, là một con dốc lớn trên núi nằm ở phía đông đảo, dốc núi này hướng mặt về phía ngôi làng ở dưới chân núi, dốc treo thẳng đứng, cây cối um tùm, vách đá cheo leo. Về nguồn gốc tên gọi, dân làng có lưu truyền một câu chuyện ma. Nghe nói hơn chục năm về trước, trên dốc núi đột nhiên xuất hiện một hiện tượng tâm linh kì lạ. Vào đêm trăng sáng, trên chạc cây ở chỗ dốc nhất trên vách núi xuất hiện một bóng đen huyền bí, bóng đen ấy ngồi im không nhúc nhích, như thể đang ngước nhìn về phía thôn làng trong màn đêm. Điều khó hiểu là, người ta chỉ có thể nhìn thấy bóng đen ấy vào ban đêm, còn ban ngày thì lại mất tăm. Vì thế câu chuyện dốc núi có ma mới được lan truyền đi, cũng từ ấy dốc núi này được gọi là ‘Dốc quỷ ám’.” Đọc xong đoạn giới thiệu vừa rồi, Mông Thiếu Huy khịt mũi vẻ không tin: “Làm gì có chuyện đó. Nhất định là do người địa phương ở đây thêu dệt, nói quá lên đấy thôi.” “Này chàng trai, thế thì cậu nhầm rồi.” ông Hồ ngắt lời vẻ nghiêm trang, chuyện “Dốc quỷ ám” có ma ngày ấy, trên đảo Minh Trạch từ già đến trẻ ai nấy đều biết, tuyệt đối không thể là chuyện thêu dệt được!” “Nói vậy, chắc bác cũng đã từng trông thấy?” La Phi hào hứng hỏi. “Dĩ nhiên rồi. Hang núi mà tôi sống ngày ấy nằm đối diện với ‘Dốc quỷ ám’ mà! Khoảng thời gian dốc núi bị ma ám ấy, người dân trong làng không ai dám ra khỏi nhà vào ban đêm, sau đó có người bỏ tiền ra xây miếu thờ bên cạnh dốc núi, còn mời cả thầy về cúng nữa, nửa đêm hôm đó bóng ma mới biến mất.” ông Hồ kể chuyện rành rọt đâu ra đấy, không hề giống như đang nói dối. Lẽ dĩ nhiên, Mông Thiếu Huy không thể nào tin vào những chuyện như vậy, thấy La Phi có vẻ chăm chú lắng nghe, cậu bèn hỏi: “Cảnh sát La Phi, anh tin vào những chuyện này sao?” “Tôi chỉ tin một chút thôi, đằng sau bất cứ câu chuyện li kì nào đều có thể tìm được lời giải thích hợp lý. Đây cũng là lí do tôi đến đảo Minh Trạch.” La Phi đã không nói dối, một tuần trước đó anh tình cờ đọc được mẩu giới thiệu về “Dốc quỷ ám” và cảm thấy vô cùng hứng thú, vừa hay đảo Minh Trạch cách Long Châu không xa, hơn nữa trong lúc đợi thuyên chuyển công tác anh đang có một kỳ nghỉ phép, vì thế La Phi đã đến đây luôn, một phần là để du ngoạn, tiện thể cũng muốn xem có giải mã được câu chuyện huyền bí này không. Lúc này sương sớm đã tan, mưa đã ngớt, tầm nhìn xa trên mặt biển cũng đã khá hơn trước rất nhiều. Đảo Minh Trạch sừng sững như một cái thân người khổng lồ đen kịt, chắn ngang hướng thuyền di chuyển, trên đảo đá núi nhấp nhô liên tiếp, quanh co kì ảo, trông giống như một con quái vật ngâm mình trong nước biển, khí thế oai phong lẫm liệt. La Phi lần đầu tiên trông thấy một hòn đảo hùng vĩ như vậy, đứng trước một kiệt tác của thiên nhiên, trong lòng anh không khỏi vài phần kính nể. Đứng cạnh anh, Mông Thiếu Huy khẽ chau mày, thần sắc trông vẻ hoang mang. kayakosaekivn, 5 Tháng mười 2014 #5 kayakosaekivn Administrator Offline Số bài viết: 798 Đã được thích: 0 Điểm thành tích: 16 Chương 3: Lên đảo Con thuyền cách bến đảo Minh Trạch càng lúc càng gần, La Phi để ý thấy một vài người nãy giờ quanh quẩn trên bờ, có vẻ như đang chờ gì đó. “Những người đó có phải là đang đợi thuyền đến để đi phố huyện không? –La Phi hỏi ông Hồ. “Ồ, đó là Chu Vĩnh Quý và người làm của ông ấy.” –ông Hồ trả lời, “hàng hóa trên thuyền phần lớn là chở thuê cho ông ấy đấy.” Chu Vĩnh Quý là ông chủ của “Siêu thị Lợi Dân” trên đảo Minh Trạch. Gọi là siêu thị, nhưng thực ra nó chỉ là một cái cửa hàng tự chọn hơi thô sơ. Cửa hàng tuy nhỏ, nhưng mấy năm nay trên đảo phát triển ngành du lịch, nên cũng kiếm được kha khá. So với du khách ở nơi khác đến, thì sức mua của cư dân trên đảo hiển nhiên là kém hơn rất nhiều, trời sắp sang đông, nên chuyến hàng lần này của Chu Vĩnh Quý hầu hết là quần áo rét và vật dụng hằng ngày, còn mấy thứ như rượu trắng và hàng Tết khô để ở mũi thuyền thì có thể coi như những món hàng xa xỉ. Thuyền vừa cập bến, Chu Vĩnh Quý đã dẫn đám người làm của mình nhảy lên bờ, ông ta vừa trò truyện với ông Hồ, vừa đánh mắt sang nhìn La Phi và Mông Thiếu Huy, ra vẻ ngạc nhiên vì sự xuất hiện của họ. La Phi cũng không bỏ lỡ cơ hội quan sát người đàn ông trung niên này, chỉ thấy ông ta thân hình gầy guộc, mặt mày khắc khổ, mặc dù đang cố gắng cười gượng, nhưng trông vẫn như vừa phải chịu điều gì đó oan ức lớn lắm. Đang lúc Mông Thiếu Huy đang chuẩn bị lên bờ thì phát hiện không thấy Kaka đâu cả, liền hỏi liến thoắng: “Con mèo tôi đem theo đâu rồi nhỉ?” Quả nhiên, trong tiếng gọi “Kaka, Kaka” của Mông Thiếu Huy, phía đuôi thuyền phát ra một tiếng mèo kêu khe khẽ. Mông Thiếu Huy đi về phía tiếng kêu phát ra, thì thấy đuôi thuyền có che một miếng vải bạt lớn, phía dưới hình như cất giấu cái gì đó trông như chiếc hòm, tiếng mèo kêu đích thị là phát ra từ dưới lớp vải bạt đó. Mông Thiếu Huy đưa tay vén lớp vải bạt lên, trông thấy vật xuất hiện trước mắt mình, cậu không khỏi thét lên một tiếng. “Chuyện gì thế?” –La Phi nhảy bổ về phía trước, phát hiện thấy dưới lớp vải bạt lộ ra một chiếc quan tài đen nháy, không khỏi kinh ngạc. Kaka nãy giờ nằm cuộn bên cạnh chiếc quan tài, lúc này đã nhảy tót lên nóc quan, nhằm chủ nhân của nó kêu “meo meo”. “Sợ các cậu cảm thấy xúi quấy, nên tôi đã không nói cho các cậu biết.” –lúc này ông Hồ cũng tiến lại gần, giải thích vẻ như có lỗi, “Đây là chiếc quan tài do hòa thượng Đức Bình trên đảo mới đặt mua, chưa có người chết nằm nên không sao đâu.” Quả nhiên, cỗ quan tài này được sơn đen bóng nhẫy, tỏa ra mùi sơn còn mới, thoạt trông là biết vừa mới làm xong không lâu. La Phi búng búng ngón tay lên nắp quan tài kiểm tra xem chất gỗ thế nào, không ngờ chú mèo đen bỗng “gừm” lên một tiếng rồi giơ móng vuốt lên nhảy chồm về phía La Phi. La Phi sợ thót mình, vội ép người né tránh. “Kaka!” –Mông Thiếu Huy quát to, cùng lúc nghiêng người qua ôm lấy con mèo vào lòng. Con mèo trợn trừng hai mắt ra nhìn La Phi, trong cổ họng nó phát ra tiếng kêu “gừm gừm” khe khẽ, như thể đang thị uy. “Ngoan nào!” –Mông Thiếu Huy vừa vỗ nhẹ vào đầu nó, vừa nhìn La Phi với vẻ ngại ngùng: “Thường ngày nó không như thế đâu, hôm nay chẳng hiểu tại sao.” “Mèo là con vật có linh tính đấy, cỗ quan tài này dù sao cũng là cầu nối âm dương…” -thấy La Phi và Mông Thiếu Huy có vẻ không tin, ông Hồ chưa nói hết câu đã dừng lại. La Phi đưa tay lên cằm xoa nhẹ rồi hỏi ông Hồ: “Trên đảo vẫn còn tục lệ mai táng à?” Ông Hồ gật đầu: “Ừ, trước khi mai táng người ta còn mời hòa thượng Đức Bình cúng nữa, phong tục người đời rồi, trước giờ chưa thay đổi.” Tại một nơi hẻo lánh như hòn đảo này thì việc còn giữ lại những phong tục xưa cũ âu cũng là điều dễ hiểu. La Phi đang định giúp ông Hồ kéo lại tấm vải bạt thì bỗng nhiên nghe thấy có tiếng người đàn ông từ trên bến vọng lại: “Ông chủ Chu, hàng lại về rồi đấy à? Trông có vẻ làm ăn được đấy nhỉ?” Giọng người này nghe khàn khàn, lại sặc mùi âm dương quái khí, cứ như muốn xé toang màng nhĩ của người nghe, cực kì khó chịu. La Phi, ông Hồ và Mông Thiếu Huy ba người không ai bảo ai đều quay đầu lại, ông Hồ đã đoán trước được “vị khách” đó là ai nên chau mày tỏ vẻ khó chịu. Vị khách cũng không cần biết mọi người có chào đón mình hay không, bước một cái là đã lên thuyền, ông ta hơi khom người, tóc tai bù xù, mặt mày đỏ ửng, tướng mặt không to, nhưng trông có vẻ hơi ốm yếu. Sau khi lên thuyền, ông ta tiến thẳng về phía khoang thuyền cạnh đó có để vài két rượu trắng, rồi lên tiếng một cách trơ trẽn: “Quảng Tứ Đặc Khúc hả? Rượu này ngon đấy, ngày trước tôi toàn uống rượu này thôi!” Chu Vĩnh Quý xầm mặt lại, không thèm tiếp lời ông ta mà chỉ vẫy tay ra hiệu cho người làm của mình: “Chuyển mau, chuyển mau, nhanh chân nhanh tay lên một chút.” Như hiểu ý ông chủ, toán người làm bèn đặt thùng xà bông đang bê trên tay xuống, chuyển sang bê rượu trắng. Vị khách thấy mình bị bẽ mặt đành nuốt trôi cục tức xuống, rồi sà vào bên cạnh Chu Vĩnh Quý nói với vẻ ti tiện: “Ông chủ Chu, rượu nhiều thế này, chi bằng bán chịu cho tôi một chai về nhà uống thử đi?” “Bán chịu thì không thành vấn đề.” –Chu Vĩnh Quý trả lời vẻ không cứng cũng chẳng mềm, “Nhưng Tiết Hiểu Hoa, ông phải trả nợ cũ trước đã.” “Tôi mà có tiền trả nợ ấy à, thì việc gì phải mua chịu nữa chứ.” –Tiết Hiểu Hoa thấy dùng chiêu mềm mỏng có vẻ không ăn thua, bèn đổi ngay sắc mặt ủ rũ, “Ngày ấy trong số các anh có ai là không nhờ bố tôi khám bệnh? Giờ người mới mất chưa được vài năm, còn mấy ai nhớ tới? Cuộc đời thật là bạc bẽo, thật chẳng biết nói thế nào đây nhỉ?” Vốn là người trông rất thật thà, Chu Vĩnh Quý nghe Tiết Hiểu Hoa nói vậy, không khỏi thở dài: “Thôi thì tôi cũng là vì nể mặt người cha quá cố của ông… thôi được rồi, tôi vẫn còn một ít rượu đóng chai lẻ, lát ông qua mà lấy.” Tiết Hiểu Hoa đáp lại lấy lệ: “Vậy cám ơn nha.” –rượu lẻ so với rượu Quảng Tứ Đặc Khúc thì chẳng thể bằng được, nhưng thôi có vẫn hơn không. Mắt ông ta đảo chung quanh thuyền một cách vô duyên, khi ánh mắt dừng lại ở chỗ La Phi và mọi người, lập tức thốt lên vẻ ngạc nhiên: “Ông Hồ à, mấy bữa nay trên đảo có thấy ai chết đâu, ông đem quan tài về là có ý gì đấy?” “Đây là của hòa thượng Đức Bình đặt mua, ông thì biết cái gì mà nói!” –ông Hồ không hề khách sáo với con sâu rượu này, “Vả lại tôi thấy một số người cũng chỉ hơn người chết chút hơi thở, chẳng thà mau chui vào quan tài sớm đi cho rồi.” Tiết Hiểu Hoa vốn đã quen bị người dân trên đảo chửi bới, nên trước những lời cạnh khóe vừa rồi của ông Hồ, ông ta không những chẳng thèm để ý, trái lại còn cười khì và tiến tới, mắt ti hí dò xét La Phi và Mông Thiếu Huy: “Ồ, hôm nay còn có thêm hai vị khách nữa cơ đấy? Thật là hiếm có.” Mông Thiếu Huy chê ông ta bộ dạng bẩn thỉu, lách người bước ra ngoài, Tiết Hiểu Hoa cố tình bám theo tới sát mặt. Mông Thiếu Huy không thể tức hơn, đành rảo bước đi tiếp, nhưng đi đến gần mạn thuyền thì chợt nhìn thấy trước mặt là sóng biển chòng chành, cậu bất giác dừng lại. Vừa hay Chu Vĩnh Quý đang bê đồ đi sau lưng cậu, khách sáo giục: “Chỉ vài bước nữa thôi, cảm phiền nha.” Một cảm giác sợ hãi không rõ nguyên nhân chất chứa nhiều năm bỗng chốc dội về trong kí ức Mông Thiếu Huy, cậu quay đầu lại nhìn Chu Vĩnh Quý vẻ hoang mang. Đúng lúc ấy một cơn gió biển thổi qua, thổi bay những sợi tóc vương trên trán, để lộ ra một vết sẹo rất dài. Chu Vĩnh Quý như bị kim đâm, khẽ kêu lên một tiếng, chiếc thùng đang bê trên tay cũng rơi đánh bịch xuống sàn thuyền. “Xin lỗi, xin lỗi!” –tiếng gọi của Chu Vĩnh Quý kéo Mông Thiếu Huy trở về với thực tại, cậu vội cúi người giúp ông ta nhặt số hàng hóa bị rơi lên. Chu Vĩnh Quý vẫn còn trong trạng thái thắc mắc, ông ta nhìn Mông Thiếu Huy với vẻ hơi nghi ngờ: “Cậu… Cậu đến đây du lịch sao? “Không, cháu đến đây để tìm lại quá khứ của mình.” –sợ người đối diện không hiểu, Mông Thiếu Huy hỏi thêm, “Bác có biết một người tên là Mông Kiến Quốc không? Trước đây chắc ông ấy đã sống trên đảo này.” “Không quen, không quen!” –Chu Vĩnh Quý xua tay liến thoắng, rồi vội vàng ôm thùng hàng bị rơi lên và chen chân lên bờ, dạt hẳn sang một bên. Mông Thiếu Huy trộm nghĩ có điều gì đó không bình thường, nhưng lại không thể gọi tên được đó là cái gì, đang băn khoăn thì La Phi lại gần và vỗ nhẹ vào vai cậu: “Để tôi lên bờ trước, sau đó cậu túm lấy tay tôi kéo lên là được.” Đứng vững chân trên bến rồi hai người mới ngẩng đầu nhìn bốn xung quanh, ngắm nghía toàn cảnh đảo Minh Trạch. Đây là một hòn đảo hình oval, từ đông sang tây khá dài, ước chừng hơn 10 km, hướng nam-bắc thì ngắn hơn chút, khoảng trên dưới 7 km. Giữa đảo có một dãy núi dài, trải dọc theo hướng nam-bắc chia toàn bộ hòn đảo ra thành hai miền đông-tây dài và hẹp. Thế đất dưới chân núi ở hai phía đông-tây khá bằng phẳng, cư dân trên đảo chủ yếu sống rải rác quanh đây, cuộc sống của họ gần như tách biệt với thế giới bên ngoài, vị trí bến thuyền nằm ở hướng đông nam của hòn đảo. Từ đây phóng tầm mắt ra xa sẽ thấy trên dãy núi là những phiến đá lởm chởm, thảm thực vật um tùm, cho người ta cái cảm giác huyền bí khôn tả; ngôi làng dưới chân núi thì lại rất có trật tự, đem lại bầu không khí bình yên, hài hòa. Mông Thiếu Huy nhìn về phía làng xóm cách đó không xa, suy nghĩ miên man, thấp thoáng cảm giác như đã từng quen biết. Còn ánh mắt của La Phi thì tập trung vào đỉnh núi ở hướng chính đông, theo như tài liệu giới thiệu thì đó chính là “Dốc quỷ ám”. “Dốc quỷ ám, bóng ma trong đêm. Nơi đây, đang ẩn chứa câu chuyện hay bí mật gì?” –La Phi tự hỏi mình, anh đâu biết rằng, kể từ khi thoát chết ở “Khô mộc tự” thì cũng là lúc bản thân anh bắt đầu dấn thân vào một cuộc hành trình đáng sợ. kayakosaekivn, 5 Tháng mười 2014 #6 kayakosaekivn Administrator Offline Số bài viết: 798 Đã được thích: 0 Điểm thành tích: 16 Chương 4: Lời đồn “Dốc núi oan hồn” So với diện tích của đảo Minh Trạch thì dân số thường trú trên đảo hiện nay không thể coi là nhiều. Trước đây cư dân trên đảo đều sống bằng nghề đánh bắt cá hoặc nông nghiệp trên những thửa ruộng bậc thang ở khu vực bằng phẳng nhất của dãy núi, mấy năm gần đây có thêm nghề du lịch, mọi người ở đâu âu đấy, tận dụng những căn phòng để không, dọn dẹp đi đôi chút là đã thành: “làng du lịch dân gian” có thể đón du khách đến nghỉ. La Phi và Mông Thiếu Huy vừa đi được một đoạn thì đã tìm thấy một hộ gia đình ở phía đông để xin ở trọ. Chủ nhà tên là Tôn Phát Siêu, một cụ ông nhiệt tình đon đả. Con cái cụ đều ra thành phố kiếm việc làm cả, còn mỗi mình cụ ở nhà. May mà có hai vị khách đến ở trọ, kể như giúp cụ bớt cô đơn phần nào, vì thế cụ chẳng những dành cho họ sự ưu đãi về giá cả, mà còn làm giúp hết việc này việc kia, quả là chu đáo hết chỗ nói. Chờ hai người họ tắm rửa xong, Tôn Phát Siêu đã chuẩn bị bữa cơm trưa tinh tươm. Lương thực do cư dân tự trồng trên đảo chủ yếu là khoai lang, thức ăn dĩ nhiên không thể thiếu cá và tôm biển. Tuy tay nghề nấu nướng khá vụng về, nhưng cá và tôm đều là hàng tươi sống, nên nhìn mà phát thèm. Ba người họ ngồi quanh một chiếc bàn, mèo đen Kaka ngồi dưới đất, thưởng thức món đầu cá và xương cá mà chủ nhân ném cho nó. La Phi vừa ăn vừa hỏi thăm Tôn Phát Siêu về phong tục tập quán trên đảo, câu chuyện được lái sang chủ đề và cũng là mục đích chuyến đi lần này của La Phi một cách rất tự nhiên –“Dốc quỷ ám”. “Lời đồn Dốc quỷ ám? Đều là chuyện có thật cả đấy!” –Tôn Phát Siêu cũng rất lấy làm hứng thú với chủ đề này, hào hứng nói, “Ngày nay ai cũng bảo phải phá bỏ tệ mê tín dị đoan, nào là ma với quỷ, người bên ngoài thì đương nhiên là không tin rồi. Nhưng nếu các cậu mà được chứng kiến những gì đã xảy ra ở đảo Minh Trạch ngày ấy, chắc sẽ không lấy làm kì lạ như vậy. E là cho đến tận hôm nay, vẫn còn không ít những cô hồn dã quỷ lang thang khắp nơi trên đảo đấy!” “Thật sao? Đảo Minh Trạch ngày ấy đã xảy ra chuyện gì đặc biệt à?” La Phi vẫn nghĩ có chút gì đó hơi kì lạ, “Tôi đọc trên tờ quảng cáo có thấy nhắc gì đến chuyện này đâu.” “Đương nhiên là không thể nhắc tới rồi, vì nếu nói ra thì sẽ có rất nhiều người không dám đến đây du lịch nữa.” –Tôn Phát Siêu cố hạ thấp giọng, ra vẻ huyền bí và nói tiếp: “Cư dân trên đảo trước đây dễ đến hàng vạn người, nhưng hơn mười năm về trước trên đảo đã xảy ra một vụ thiên tai khủng khiếp, chết mất già nửa người!” “Hơn mười năm trước? Thiên tai?” –La Phi bỗng nghĩ ra điều gì đó, buột miệng, “Có phải là trận động đất ở biển đông năm ấy không?” “Đúng thế.” –Tôn Phát Siêu vừa gật đầu vừa nhìn La Phi, “Không ngờ cậu cũng biết cơ đấy. Trận động đất năm ấy gây nên sóng thần