Vị linh mục Dòng Tên vừa mỉm cười vừa đặt khai ăn xuống. “Này, Mary Jo, bà đừng có mong được giảm nhẹ mức xá tội nữa đấy nhé”. “Ối chào, gia đình nào thì cũng phải có một con chiên ghẻ chứ Cha!” “Chúng ta đang cố giành ‘quota’ với các giáo hoàng Medici đây”. “Thưa Cha, tôi cũng đã có lần từng trải”. Chris bắt đầu. Nhưng vị khoa trưởng ngắt lời. “Có phải bà định xem việc này như một vấn đề xưng tội không?” Chris mỉm cười, đáp. “Không, tôi không phải là người Công giáo”. “Ôi chào, thì mấy ông Dòng Tên cũng có phải đâu”, bà Perrin cười khúc khích. “Đúng là luận điệu phỉ báng của đám Dominicain”, vị khoa trưởng trả đũa. Rồi quay lại Chris, ông nói, “Xin lỗi. Lúc nãy bà đang nói là…?” “Vâng, chả là tôi nghĩ mình đã trông thấy có ai đó đã có lần bay bổng người lên. Ở Bhutan ấy”. Nàng thuật lại câu chuyện. “Cha có nghĩ là điều ấy có thể có không?” nàng kết thúc. “Tôi hỏi hết sức nghiêm chỉnh đấy”. “Nào ai biết”. Ông nhún vai. “Nào ai biết sức hút là gì? Hay là vật chất, khi sự việc xảy ra như thế đó”. “Cha có muốn tôi góp ý không?” Bà Perrin xen vào. Vị khoa trưởng đáp. “Không Mary Jo à, tôi đã phát nguyện sống đời nghèo khổ rồi”. “Tôi cũng thế”, Chris thì thầm. “Cái gì vậy?” vị linh mục hỏi, cúi người ra phía trước. “Ồ, có gì đâu. Ý là tôi có điều muốn hỏi Cha. Cha có biết ngôi nhà nhỏ ở phía sau tòa giáo đường kia không?” “Thánh đường Ba Ngôi?” “Vâng, đúng rồi. Có chuyện gì xảy ra ở đó vậy?” “Ối chao, đó là nơi bọn họ cử hành lễ Đen ấy mà”. Bà Perrin bảo. “Cái gì đen cơ?” “Lễ Đen”. “Là cái gì?” “Bà ấy đùa đấy”, vị khoa trưởng bảo. “Vâng, tôi biết”, Chris bảo. “Nhưng tôi thật lú lẫn. À mà, Lẽ Đen là thế nào?” “Về căn bản, đó là một sự mô phỏng, một sự nhái lại Thánh lễ Mi-sa của Công giáo”, vị khoa trưởng giải thích. “Lễ nghi đó liên quan đến phép phù thủy. Nó tôn thờ quỷ dữ”. “Thật vậy sao? Ý Cha muốn nói là quả thật đã có một việc như vậy sao?” “Tôi cũng không dám nói chắc. Mặc dù có dạo tôi được nghe nói đến một bảng thống kê cho biết có thể có vào khoảng năm mươi ngàn Thánh lễ Đen được cử hành hàng năm tại thủ đô Paris”. “Cha muốn nói là hiện nay?” Chris kinh ngạc. “Tôi chỉ nghe nói thôi”. “Phải rồi, dĩ nhiên là do nguồn tin của sở mật vụ Dòng Tên”. Bà Perrin quở. “Không hề. Tôi nghe đồn thôi”, vị khoa trưởng đáp. “Cha biết không, ở Los Angeles”, Chris đề cập, “người ta nghe thấy không biết bao nhiêu chuyện về tật sùng bái phù thủy đang diễn ra. Tôi không ngớt thắc mắc, không hiểu chuyện ấy có xác thực không nữa”. “Như tôi đã thưa, tôi không được biết”, vị khoa trưởng đáp. “Nhưng tôi có thể mách cho bà một người có thể thông hiểu vấn đề – Joe Dyer. Joe đâu rồi?” Vị khoa trưởng nhìn quanh. “Ồ, kia rồi”. Ông nói, gật đầu về hướng vị linh mục kia, ông ta đang đứng ở bàn thức ăn quay lưng lại phía họ. Ông đang lấy một phần ăn đầy tú hụ nữa vào khay. “Ê, Joe?” Vị linh mục trẻ quay lại, mặt lãnh đạm. “Ngài gọi ạ? Thưa vị khoa trưởng vĩ đại?” Vị khoa trưởng đưa mấy ngón tay ra hiệu gọi ông ta đến. “Được rồi, xin đợi cho một giây thôi”, Dyer trả lời, xong lại tiếp tục tấn công món cà ri và rau trộn. “Đó là một con quỷ duy nhất trong hàng ngủ linh mục”, vị khoa trưởng nói với vẻ âu yếm. Ông nhắp ly rượu. “Tuần rồi đã xảy ra hai vụ phạm thánh tại Thánh đường Ba Ngôi. Jo cho biết có đôi điều trong một vụ khiến ông ta nhớ đến vài chi tiết họ thường làm trong Lễ Đen, cho nên tôi hy vọng rằng ông ấy sẽ biết đôi nét về vấn đề này”. “Chuyện gì xảy ra ở Thánh đường đó vậy?” Mary Jo Perrin hỏi. “Chà, điều đó thật quá sức ghê tởm”. Vị linh mục đáp. “Cứ nói, ta đã ăn xong buổi cả rồi”. “Thôi cho tôi xin, nó quá quắt lắm”. Ông ngần ngừ. “Thì cứ nói đi!” “Vậy ra bà không đọc được ý nghĩ của tôi sao, hở Mary Jo?” Ông hỏi bà. “Ồ được chứ”, Bà ta đáp. “Có điều tôi nghĩ mình không xứng đáng được thâm nhập vào vị thánh của các Vị Thánh ấy!” Bà cười khúc khích. “Vâng, điều ấy thật hết sức tởm lợm”, vị khoa trưởng bắt đầu. Ông thuật lại mấy vụ phạm thánh đó. Trong vụ thứ nhất, ông bõ già coi nhà thờ đó đã khám phá ra một bãi phân người lù lù trên khăn phủ bàn thờ, ngay trước tủ đựng bánh thánh. “Chà, thực là đáng kinh tởm”. Bà Perrin nhăn mặt. “Hừ, vụ thứ hai còn tồi tệ hơn nữa”, vị khoa trưởng nhận xét, rồi bằng động tác gián tiếp và một hai uyển ngữ, không giải thích thế nào người ta đã tìm thấy một chiếc dương vật to tướng nặn bằng đất sét được gắn chặt vào tượng Chúa Giê-su trên bàn thờ bên cánh trái. “Đủ lợm giọng rồi chứ?”. Ông kết thúc. Chris nhận thấy Mary Jo có vẻ băn khoăn thực sự lúc bà ta nói: “Ôi, bây giờ thế là đủ rồi. Tôi rất tiếc là đã nêu câu hỏi. Xin hãy chuyển sang đề tài khác hộ”. “Không, tôi đang say mê đây”. Chris nói. “Vâng, đã hẳn. Còn tôi là người rất đáng say mê”. Đó là Cha Dyer. Ông quanh quẩn bên nàng với chiếc khay ăn. “Xin nghe đây, cho tôi một phút thôi, tôi sẽ trở lại ngay. Tôi còn dở dang câu chuyện với vị phi hành gia ở đằng kia”. “Chẳng hạn như chuyện gì?” Vị khoa trưởng hỏi. Cha Dyer nhướng đôi mắt trong vẻ phỏng đoán lạnh lùng. “Cha có tin được chuyện”, ông hỏi, “một nhà truyền giáo đầu tiên trên mặt trăng không?” Họ phá ra cười. “Cha quả là có kích thước vừa vặn đấy”. Bà Perrin bảo. “Họ có thể xếp Cha ngồi gọn nơi đầu mũi phi thuyền”. “Không, có phải cho tôi đâu”, ông trịnh trọng đính chính lời bà, rồi quay sang vị khoa trưởng, ông giải thích. “Tôi cố thu xếp chỗ ấy cho Emory đấy”. “Đó là vị giám mục phụ trách kỷ luật trong trường đại học”, Dyer giải thích riêng cho hai người phụ nữ rõ. “Trên đó sẽ không có người nào và đó chính là điều ông ta thích, các bà thấy đó, ông ta là loại người thích tĩnh”. “Thế thì ông ta sẽ cải đạo cho ai đây?” bà Perrin hỏi. “Bà muốn nói gì vậy?” Ông thực sự bất bình với bà ta. “Thì ông ta cải giáo cho các phi hành gia chứ còn ai. Chính thế. Tôi muốn nói đó chính là sở thích của ông ấy, các vị biết đó, chỉ một hoặc hai người thôi. Miễn đám đông. Chỉ một cặp thôi”. Với một tia nhìn bất động, Dyer liếc về phía nhà phi hành. “Xin lỗi nhé”, ông ta nói, rồi bỏ đi. “Tôi thích ông ta”, bà Perrin bảo. “Tôi cũng vậy”, Chris tán thành. Rồi nàng quay sang vị khoa trưởng. “Cha chưa kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà nhỏ kia”, nàng nhắc ông. “Bí mật trọng đại chăng? Vị linh mục mà tôi thấy ở đó hoài là ai vậy? Cha biết, cái ông hơi đen đúa ấy? Cha có biết người ấy không?” “Cha Karras”, vị khoa trưởng thấp giọng, với nét hối tiếc. “Ông ta làm gì?” “Ông ta là một cố vấn”. Ông đặt ly rượu xuống, tay cứ xoay xoay cái chân ly. “Đêm qua, ông ấy vừa bị một cú sốc khá phũ phàng. Tội nghiệp ông ta”. “Ủa, chuyện gì vậy?” Chris hỏi với một vẻ quan tâm bất ngờ. “Mẹ ông ta qua đời”. Chris cảm thấy chan chứa một nỗi đau đớn thương cảm mà nàng không sao giải thích nổi. “Thật đáng thương tâm” nàng nói. “Ông ta có vẻ bị một đòn khá nặng”, vị tu sĩ Dòng Tên trở lại câu chuyện. “Bà cụ sống một mình, và tôi đoán chắc bà phải chết đến hai ngày rồi người ta mới khám phá ra”. “Thật kinh khủng”, bà Perrin thì thầm. “Ai tìm ra bà?” Chris hỏi một cách nghiêm túc. “Người chủ nhiệm tòa chung cư bà ở. Tôi nghĩ dám đến tận bây giờ người ta cũng chưa tìm thấy bà nếu như… hừ, nếu như mấy người hàng xóm sát nách không than phiền vì bà cứ mở ra-đi-ô suốt ngày đêm”. “Thật buồn thảm”. Chris thì thầm. “Xin bà chủ thứ lỗi”. Nàng ngước lên nhìn Karl. Anh ta bưng một khay đầy những ly và các thứ rượu mạnh. “Được rồi, anh cứ để xuống đó đi, Karl, thế được rồi”. Chris thích thân chinh hầu rượu cho các khách khứa của mình. Nàng cảm thấy cử chỉ đó làm tăng vẻ thân mật mà nếu không có thì lại thành ra thiếu. “Nào, ta xem, để tôi phục vụ hai vị trước tiên”, nàng bảo vị khoa trưởng và bà Perrin, rồi rót rượu mời họ. Sau đó, nàng di chuyển quanh phòng, hỏi mọi người dùng gì rồi đi lấy rượu đến cho từng vị khách, và đến lúc nàng mời xong được mấy tuần rượu rồi thì các nhóm khách khứa lại tản ra, tụ thành những nhóm mới, ngoại trừ có Dyer và người phi hành gia thì lại có vẻ còn gắn bó hơn trước. “Không, thực ra tôi không phải là một linh mục”, Chris nghe thấy Dyer long trọng nói thế, tay ông quàng lên đôi vai cứ rung bần bật lên vì cười của nhà phi hành. “Thực tế tôi là một thầy ra-bi Do Thái giáo cực kỳ cấp tiến”. Ít lâu sau đó, nàng lại nghe lỏm được Dyer chất vấn nhà phi hành: “Không gian là gì?” và lúc nhà phi hành nhún vai bảo rằng thực sự ông không biết, Cha Dyer cau mày nhìn ông chăm chú và bảo “Ông cần phải biết”. Lúc Chris đang đứng cạnh Ellen Cleary, ôn lại chuỗi ngày ở Mascova, chợt nàng nghe một giọng the thé quen thuộc vang lên giận dữ từ phía nhà bếp. Ôi lạy Chúa! Lại Burke rồi! Ông đang văng tục với ai đó. Chris cáo lỗi và đi ngay xuống bếp, gặp Dennings đang xỉ vả Karl dữ dội, còn Sharon thì cố can gián ông một cách vô ích. “Burke”, Chris kêu lên. “Thôi đi”. Nhà đạo diễn cứ tiếp tục giận sùi bọt mép, còn Karl lặng thinh đứng khoanh tay tựa nơi bồn rửa chén với vẻ phớt tỉnh, mắt dán chặt lấy Dennings không chút chao đảo. “Karl” Chris quát. “Anh có đi ra ngay không? Đi ra! Anh không thấy ông ta như thế nào đó sao?” Nhưng người đàn ông Thụy Sĩ đó không hề nhúc nhích mãi đến khi Chris phải đẩy anh ta ra cửa. “Đồ con heo Quốc xã!” Dennings hét tướng sau lưng anh ta. Rồi ông ta ân cần quay lại Chris, xoa hai tay vào nhau. “Ăn tráng miệng gì đây?” ông hỏi nhỏ nhẹ. “Tráng miệng à!” Chris đấm thùm thụp ức bàn tay lên chân mày mình. “Chà, tôi đói rồi đây”, ông ta rên rỉ. Chris quay sang Sharon. “Cho anh ta ăn đi! Tôi còn phải đi lôi bé Regan lên giường ngủ. Còn Burke, tôi xin anh”, nàng năn nỉ nhà đạo diễn. “Anh hãy vui lòng cư xử coi cho được một chút! Có các linh mục ngoài đó!” Nàng chỉ. Đôi mắt ông căng lại trong một vẻ chú ý bất ngờ và hình như rất thật. “Ủa, cô cũng để ý đến điều đó sao?” Ông hỏi không một chút ma mãnh. Chris rời bếp đi xuống ngó Regan ở phòng giải trí dưới hầm, cô bé suốt ngày ở dưới đó. Nàng bắt gặp con đang chơi cầu cơ. Trông nó có vẻ sưng sỉa, lãng đãng, xa cách. Chà, ít ra thì nó cũng không hung hăng háo chiến. Chris suy nghĩ rồi hy vọng sẽ khuây khỏa được con, nàng đưa nó đến phòng khách, và bắt đầu giới thiệu nó với tân khách. “Ồ, cháu bé thật đáng yêu!” Vợ ông thượng nghị sĩ nói. Regan cư xử hòa nhã một cách khác thường, chỉ trừ lúc đến bên cạnh bà Perrin, nó không hề nói mà cũng không chịu bắt tay bà. Nhưng bà tiên tri lấy đó làm một chuyện đùa vui. “Nó biết tôi là đồ giả”, bà nheo mắt với Chris. Nhưng sau đó, với một vẻ dò xét đầy hiếu kỳ, bà đưa tay ra nắm lấy bàn tay Regan và bóp khẽ, như thể bắt mạch. Regan giật phắt tay ra ngay, gườm gườm nhìn bà một cách hung hiểm. “Ôi, trời ạ! Con bé chắc phải mệt mỏi lắm”. Bà Perrin thản nhiên nói, tuy nhiên bà cứ tiếp tục nhìn Regan chăm chăm với vẻ dò xét, với nổi băn khoăn không giải thích được. “Con bé hơi khó ở”, Chris thầm thì biện bạch. Nàng nhìn xuống Regan. “Có phải không con của mẹ?” Regan không trả lời. Nó cứ nhìn xuống sàn nhà. Chỉ còn thiếu ông thượng nghị sĩ và Robert, con trai của bà Perrin, là Regan chưa được giới thiệu, nhưng Chris nghĩ tốt hơn hết là cho qua luôn. Nàng dắt Regan lên phòng ngủ và ủ con vào giường. “Con nghĩ là con sẽ ngủ được chứ?” Chris hỏi. “Con không biết nữa”. Nó trả lời lơ mơ. Nó xoay người nhìn chăm chăm lên vách với vẻ xa vắng. “Con có muốn mẹ đọc sách cho con nghe một lát không?” Cô bé lắc đầu. “Thôi được. Cố ngủ đi nhé!” Nàng cuối xuống hôn con, rồi bước ra cửa, tắt đèn. “Ngủ ngoan, bé con”. Chris vừa dợm bước ra khỏi cửa thì Regan kêu nàng thật khẽ: “Mẹ à, con có làm sao không?” Bị ám ảnh quá sức. Giọng nói của con bé thật tuyệt vọng. Thật không cân xứng với tình trạng của nó. Trong thoáng chốc, người mẹ cảm thấy run rẩy và bối rối. Nhưng nhanh chóng, nàng trấn tĩnh lại được. “Nào, như mẹ đã nói với con, đó chỉ là vấn đề thần kinh thôi con ạ. Con chỉ cần uống mấy viên thuốc kia trong hai tuần lễ là lại khỏe như sáo ấy thôi, mẹ nghĩ thế. Bây giờ thì hãy cố ngủ đi, được chứ?” Không một tiếng trả lời. Chris chờ đợi. “Được chứ?” nàng nhắc lại. “Được ạ”. Regan thì thào. Chris chợt nhận ra cánh tay nàng nổi gai ốc. Nàng chà xát cánh tay. Quái lạ! Sao phòng này bỗng dưng lạnh quá. Gió ở đâu lùa vào được nhỉ? Nàng bước lại cửa sổ, rà dọc theo các thành cửa. Không thấy gì. Nàng quay sang Regan. “Con đủ ấm chưa, em bé?” Không một lời đáp. Chris đến bên giường. “Regan, con ngủ rồi à?” Nàng thì thầm. Hai mắt con bé nhắm nghiền. Hơi thở sâu lắng. Chris rón rén rời phòng. Từ hành lang, nàng đã nghe thấy tiếng hát, và lúc bước xuống thang gác, nàng hoan hỉ thấy vị linh mục trẻ Dyer đang chơi dương cầm cạnh cánh cửa sổ lớn, trong phòng khách, và đang hướng dẫn một nhóm vây quanh ông hát một bản vui nhộn. Lúc nàng bước vào phòng khách, họ vừa hát xong bản “Cho đến khi chúng ta trùng phùng”. Chris đang tiến đến tham gia vào nhóm đó thì bị thượng nghị sĩ và vợ của ông ta chặn ngay lại, hai người đã cầm áo khoác trên tay. Trông họ có vẻ bực bội. “Ông bà định về sớm thế sao?” Chris hỏi. “Tôi rất lấy làm tiếc, chúng tôi vừa trải qua một buổi tối thật tuyệt diệu”, vị thượng nghị sĩ thổ lộ. “Nhưng không may Martha đây lại bị nhức đầu”. “Ồ, thật rất tiếc, nhưng bỗng dưng tôi thấy khó ở quá”, vợ ông nghị sĩ than thở. “Chris tha lỗi cho chúng tôi nhé? Thật bữa tiệc hết sức là tuyệt vời”. “Tôi rất lấy làm tiếc là ông bà phải ra về”, Chris nói. Nàng tiễn họ ra cửa và kịp nghe Cha Dyer ở phía sau đang hỏi “Có ai khác thuộc lời bài ‘Tôi dám cuộc rằng lúc này em đang hối tiếc đây, bông hồng Tokyo à’?” Nàng chào, chúc họ ngủ ngon. Lúc nàng quay lại phòng khách, Sharon từ trong văn phòng khẽ bước ra. “Burke đâu rồi?” Chris hỏi cô gái. “Trong đó”, Sharon trả lời với một cái gật đầu về phía văn phòng. “Ông ta đang ngủ cho giả rượu. Này, vừa rồi ông thượng nghị sĩ nói gì với chị vậy? Có nói gì không?” “Cô muốn nói gì vậy?” Chris hỏi. “Họ chỉ ra về thôi”. “Chà, em cũng đoán là thế”. “Sharon, cô định nói gì vậy?” “Ồ, Burke ấy mà”, Sharon thở dài. Bằng giọng nói dè dặt, cô gái thuật lại cuộc gặp gỡ giữa vị nghị sĩ và nhà đạo diễn. Dennings đã đưa ra một nhận xét với ông nghị sĩ, lúc đi ngang qua ông này, Sharon kể, rằng hình như có “một sợi lông mu lạ hoắc đang bơi trong ly gin của tôi nè”. Sau đó, ông quay sang vị thượng nghị sĩ và nói tiếp bằng một giọng điệu thống trách mơ hồ, “tôi chưa bao giờ thấy cái đó trong đời, còn ông?” Chris cười khúc khích lúc Sharon thuật tiếp thế nào cái phản ứng bối rối của vị thượng nghị sĩ đã châm ngòi cho một cơn phẫn uất rất hào hiệp của Dennings, trong đó ông ta bày tỏ “lòng biết ơn vô hạn” đối với sự tồn tại của các chính trị gia, mà nếu không có họ “người ta không có cách nào phân biệt được các chính khách là ai nữa, ông thấy đó”. Lúc ông thượng nghị sĩ cáu kỉnh bỏ đi, vị đạo diễn quay sang Sharon hãnh diện khoe. “Đó, cô thấy chưa? Tôi có chửi rủa, thề thốt gì đâu. Cô có cho là tôi đã cư xử khá ư là từ tốn đấy không?” Chris không sao nín cười được. “Ôi thôi, cứ để cho ông ấy ngủ. Nhưng cô cứ ở lại văn phòng, nhỡ ông ta có thức dậy. Không phiền chứ?” “Không hề”, Sharon bước vào văn phòng. Trong phòng khách, Mary Jo Perrin ngồi một mình, trầm tư trên một chiếc ghế ở góc nhà. Trông bà có dáng cau có, bứt rứt. Chris định đến với bà, nhưng đổi ý lúc có một người hàng xóm lảng về góc đó. Thế là nàng bước về phía dương cầm. Dyer rời phím đàn ngước lên đón nàng. “Vâng, thưa bà chủ trẻ, chúng tôi làm gì được cho bà hôm nay đây? Chúng tôi đang dự định tổ chức một tuần cầu kinh làm việc phúc trong chín ngày thật đặc biệt đây”. Chris cười rinh rích với mấy người khác. “Tôi mới được nghe một tuy-dô riêng về những điều diễn tiến trong Lễ Đen”, nàng nói. “Cha Wagner cho biết Cha là một chuyện gia về vấn đề ấy”. Cả nhóm vây quanh dương cầm đều lặng yên, lắng nghe. “Ồ, không có đâu”, Dyer nói, vừa chạm khẽ mấy phím đàn. “Tại sao bà lại đề cập đến Lễ Đen?” Ông trầm mặc hỏi nàng. “Ồ, thì mấy người chúng tôi mới nói về… chà… về những chuyện người ta khám phá ở Thánh đường Ba Ngôi, và…” “Này, bà định nói đến những vụ phạm thánh ấy chứ gì?” Dyer ngắt lời. “Kìa, phải có ai đó giải thích cho chúng tôi về chuyện gì xảy ra chứ”, nhà phi hành gia đòi hỏi. “Tôi nữa”, Ellen Cleary nói. “Tôi cũng mù tịt chuyện đó”. “Vâng, người ta đã khám phá ra vài vụ phạm thánh tại ngôi giáo đường cuối phố”, Dyer giải thích. “Chẳng hạn ra sao?” người phi hành gia hỏi. “Quên điều đó đi”, Cha Dyer khuyên ông ta. “Ta chỉ nên biết đó là những điều rất tục tĩu, đồng ý chứ?” “Cha Wagner có cho biết rằng Cha đã kể với ông ấy là vụ này giống như những diễn tiến ở một cuộc Lễ Đen”, Chris nhắc nhở, “và tôi rất thắc mắc là những gì đã diễn ra trong những vụ đó”. “Chà, thực sự tôi cũng chẳng biết được mấy nỗi”, ông ta phản kháng. “Thực tế, hầu hết những gì tôi biết là do lời kể của một ông Jeb khác”. “Jeb là thế nào?” “Tên tắt của tu sĩ Hội Giê-su. Dòng Tên. Cha Karras đó là một nhà chuyên môn về những vấn đề này”. Chris chợt cảnh giác. “Có phải là vị linh mục đen đúa ở thánh đường Ba Ngôi đó không?” “Bà biết ông ấy?” Cha Dyer hỏi. “Không, tôi chỉ mới nghe nói đến ông ta thôi”. “Vâng, tôi nghĩ ông ấy đã có lần viết sách nghiên cứu về đề tài ấy. Bà cũng biết đấy, thuần túy trên khía cạnh tâm thần học thôi”. “Cha muốn nói sao?” Chis hỏi. “Sao là sao? Bà hỏi sao là sao cơ chứ?” “Có phải Cha định bảo tôi rằng ông ấy là một nhà tâm thần học không?” “Ồ, dĩ nhiên rồi. Ủa, mà tôi xin lỗi. Tôi cứ ngỡ là bà đã biết rồi”. “Này, phải có ai đó nói cho tôi nghe chuyện gì mới được chứ?” Nhà phi hành gia nôn nóng thúc giục. “Cái gì diễn ra ở Lễ Đen?” “Cứ cho đó là những việc đồi trụy, xuyên tạc đi”, Dyer nhún vai. “Những trò tục tĩu. Lăng mạ, báng bổ thần thánh. Đó là sự nhại lại Thánh lễ Mi-sa một cách độc ác. Tại cuộc lễ đó, thay vì thờ phụng Thiên Chúa, họ sùng bái quỷ Satan và đôi khi còn đem con người ra làm vật hy sinh để hiến tế nữa”. Ellen Cleary lắc đầu, bỏ đi chỗ khác. “Câu chuyện này thật kinh khủng quá sức tôi!” bà mỉm cười yếu ớt. Chris không để ý đến bà ta. Vị khoa trưởng dự vào nhóm một các kín đáo. “Nhưng làm sao Cha biết được điều ấy?” Nàng hỏi vị linh mục trẻ. “Thậm chí nếu Lễ Đen là chuyện có thật đi nữa, ai dám nói là có những gì diễn ra trong nghi lễ đó?” “Vâng, tôi cho rằng người ta đã biết hầu hết những điều đó”. Dyer trả lời. “Căn cứ trên những lời khai của những kẻ tham dự bị bắt giữ”. “Ôi chào”, vị khoa trưởng chen vào. “Mấy lời cung khai đó thật vô giá trị, Joe ạ, họ bị tra tấn mà”. “Không đâu, chỉ những kẻ nào ngoan cố xấc xược mới bị thôi”, Dyer lễ phép nói. Một tràng cười hơi bối rối vang lên. Vị khoa trưởng nhìn đồng hồ tay. “Thôi, chắc tôi phải xin kiếu đây”, ông bảo Chris. “Tôi phải làm lễ sáu giờ tại nhà nguyện Dahlgren”. Sau đó, đôi mắt linh mục Dyer chuyển hướng về một điểm ở trong phòng, phía sau Chris, và ông đột ngột tỉnh hẳn rượu. “Này, tôi nghĩ là chúng ta đang có một vị khách đây, thưa bà MacNeil”. Ông bắt đầu lưu ý nàng. Chris quay lại, nàng há hốc mồm khi trông thấy Regan trong chiếc áo ngủ, đang đái xối xả xuống tấm thảm trải. Nhìn chòng chọc nhà du hành, cô bé phát lên một giọng nói vô hồn: “Ông sắp chết ở trên đó”. “Ôi, Chúa ôi!” Chris đau đớn kêu lên, xông đến bên con gái. “Ôi chúa ơi, bé con của mẹ, nào, nào, đi với mẹ nào!” Nàng nắm hai tay Regan đưa nhanh con đi, vừa quay lại lúng túng xin lỗi nhà phi hành đang xám xanh mặt mày. “Ôi, tôi xin lỗi. Con bé bị đau yếu, hẳn là nó đi trong khi đang ngủ đây, bệnh mộng du! Cháu nó không còn biết là nó đang làm gì nữa”. “Thôi, có lẽ ta nên về đi”. Nàng nghe Dyer bảo một người nào đó. “Không, không, xin cứ ở lại”, Chris phản đối, ngoái lại sau trong chốc lát. “Xin vui lòng ở lại cho. Mọi sự ổn cả. Tôi sẽ quay lại ngay thôi”. Chris dừng lại ở bếp, dặn Willie lo gội tấm thảm trước khi vết dơ vô phương tẩy xoá, rồi nàng dìu Regan lên thang gác, đến tận phòng ngủ của nó, tắm gội và thay áo khác cho nó. “Cưng ạ, tại sao con lại nói năng như thế?” Chris hỏi con dồn dập, nhưng Regan hình như không hiểu gì và lẩm bẩm những điều không ăn nhập gì đến câu chuyện vừa rồi. Đôi mắt con bé trống rỗng u ám. Chris ủ con vào giường và gần như lập tức, Regan có vẻ ngủ say. Chris chờ đợi một lúc, lắng nghe tiếng thở của con. R