Thế nhưng trên bàn giấy của Kingderman là một hồ sơ buộc tội Engtrom đề ngày 27 tháng Tám năm 1963, tố cáo rằng trong suốt thời gian nhiều tháng trời, Engstrom đã đánh cắp một số lượng ma túy trong nhà một vị bác sĩ ở Beverly Hills nơi anh ta và Willie được mướn vào giúp việc lúc ấy. “…. sinh ngày 20 tháng Tư năm 1921 tại Zurich, Thụy Sĩ. Cưới Willie nee Braun ngày 7 tháng Chín năm 1941. Con gái, Elvira, sinh tại thành phố New York ngày 11 tháng Giêng năm 1943, địa chỉ hiện tại không rõ. Bị cáo…” Phần còn lại của hồ sơ nhà thám tử mới thấy điên đầu. Vị bác sĩ, mà lời khai của ông là điều kiện tất yếu giúp cho việc khởi tố có kết quả, bất ngờ – và không một lời giải thích – lại bãi nại. Tại sao ông ta lại làm như vậy? Chỉ sau đó hai tháng, cặp vợ chồng Engstrom lại được Chris MacNeil mướn giúp việc nhà, điều đó cho thấy rằng vị bác sĩ đó đã có lời giới thiệu thuận lợi, đã có nhận xét tốt về cặp vợ chồng này. Thế sao ông ta lại làm thế? Engstrom chắc chắn là có đánh cắp thuốc thật, thế mà một cuộc giám định y khoa vào thời gian vụ án lại không thể đưa ra được một dấu hiệu nhỏ nhất nào cho thấy là anh ta có nghiện ma tuý, thậm chí là có dùng các chất ấy. Tại sao lại không? Mắt vẫn nhắm, nhà thám tử khẽ đọc “bài vè” của Lewis Carrol “Twa brillig and the slithy toves…” một trong những trò giải trí khác của ông. Lúc đã đọc xong, ông mở mắt ra và dán tia nhìn lên điện Capitol có kiến trúc hình tròn, cố giữ cho đầu óc trống rỗng. Nhưng cũng như thường lệ, ông nhận thấy điều đó bất khả thực hiện. Thở dài sườn sượt, ông liếc xuống bản phúc trình của chuyên gia tâm lý học của sở cảnh sát về những vụ phạm thánh gần đây tại Thánh đường Ba Ngôi: “… tượng… dương vật… phân người… Damien Karras…” mà ông đã gạch dưới bằng bút đỏ. Ông thở khò khè trong yên lặng rồi với lấy một tác phẩm biên khảo về thuật phù thủy, lật đến trang mà ông đã đánh dấu bằng một cái kẹp giấy: … Lễ Đen… một hình thức sùng bái quỷ dữ, lễ nghi thờ phượng, về đại thể gồm có sự cổ vũ (bài ‘giảng thuyết’) làm điều ác giữa vòng các tín hữu giao hợp với ác quỷ và hàng loạt các hành vi xúc phạm thần thánh khác nhau phần lớn đều mang tính chất tình dục v.v.. và v.v… Kingdeman lật lướt qua một số trang, đến một đoạn có gạch dưới bàn về sự giết người trong lễ nghi thờ phượng của bọn phù thủy này. Ông đọc đoạn đó chậm rãi, vừa nhấm đầu ngón tay trỏ, và khi đã đọc xong, ông nhìn trang sách cau mày và lắc đầu. Ông ngước tia nhìn trầm tư lên ngọn đèn. Ông tắt đèn. Ông rời văn phòng, lái xe đến nhà xác. Chàng thanh niên phụ trách ngồi ở bàn giấy, đang nhấm nháp một miếng xăng-uých bằng bột hắc mạch có kẹp dăm bông và phó mát, tay phủi mấy vụn bánh mì khỏi một trang ô chữ thì Kingderman đến bên anh ta. “Dennings”, nhà thám tử thì thào, giọng khản đặc. Người phụ trách gật đầu, điền xong năm chữ cái trên hàng ngang ô chữ, rồi đứng dậy cầm miếng xăng uých đi xuống hành lang. Kingderman theo sau anh ta, mũ trên tay, theo sau cái mùi hột gà (mù tạt) phảng phất, đến mấy dãy tủ ướp lạnh, đến một phòng không mộng mơ dùng để chứa những đôi mắt mù lòa. Họ dừng lại ở hộc tủ số 32. Người phụ trách lạnh lùng kéo hộc tủ ra. Anh ta cắn bánh xăng uých, và một miếng ruột bánh lấm tấm sốt mayonnaise rơi khẽ khàng trên lớp vải liệm. Trong một lúc, Kingderman cứ đăm đăm nhìn xuống, rồi chậm rãi và khẽ khàng, ông lật tấm vải liệm lên để phô bày ra cái mà ông đã thấy và vẫn không thể chấp nhận được. Cái đầu của Burke Dennings bị vặn hẳn ra phía sau, mặt nhìn ra sau lưng! Lọt thỏm trong lòng chảo xanh tươi, ấm áp của khuôn viên trường Đại học, Damien Karras một mình chạy lúp xúp quanh một đường chạy hình thuẫn đầy đất mùn, chiếc quần soóc kaki và áo thun bằng vải cô-tông ướt đẫm thứ mồ hôi dính dáp lành mạnh. Phía trước mặt trên một ngọn đồi nhỏ, mái vòm trắng xóa của đài thiên văn nhịp rộn ràng theo sải chân của ông, sau lưng ông, trường y khoa khuất dạng sau lớp bụi và niềm ưu tư đang bị quấy động mịt mù. Từ khi được giải nhiệm khỏi chức vụ cũ, ông đến đây hằng ngày, chạy mấy dặm đường theo vòng chảo và săn đuổi giấc ngủ. Ông suýt bắt được nó, sắp lơi lỏng được khỏi móng vuốt của những nỗi muộn phiền đã xoắn chặt lấy tâm hồn ông như một vết xâm mình sâu đậm. Nỗi phiền muộn bấy giờ đã vương vấn ông nhẹ nhàng hơn. Hai mươi vòng… Dễ chịu hơn nhiều. Nữa! Hai vòng nữa. Càng dễ chịu hơn… Các bắp thịt chân mạnh mẽ, căng máu và đau nhói, khẽ lay động với nét uyển chuyển thon thả của loài sư tử, Karras đang chạy thình thịch qua một khúc quanh, thì ông chợt nhận thấy có ai đó đang ngồi trên chiếc ghế đá, phía ông để khăn lau và quần dài: một người đàn ông trung niên trong chiếc áo khoác lụng thụng, đội chiếc mũ ni bèo nhèo như nùi giẻ. Hình như người đó đang nhìn ông. Đúng không? Đúng quá rồi… đầu ông ta quay lại lúc Karras chạy ngang. Vị linh mục tăng tốc, sải chân của ông nện xuống thình thịch làm vang động cả mặt đất ở vòng chạy cuối cùng, rồi ông giảm tốc độ xuống thành nhịp đi bộ, vừa thở hào hển vừa đi ngang qua ghế đá không buồn nhìn lại, hai tay ép khẽ xuống hai bên hông. Bộ ngực đầy ăm ắp những bắp thịt rắn chắc như đá tảng cùng triền vai của ông khẽ nhô lên làm căng cứng chiếc áo thun, làm biến dạng mấy chữ CÁC TRIẾT GIA in ngay trước ngực áo, các chữ cái trước đây đen tuyền nay đã phai hẳn màu, qua bao nhiêu lần giặt giũ. Người đàn ông mặc áo khoác đứng dậy, bắt đầu tiến đến gần vị linh mục. “Cha Karras?” Trung úy Kingderman gọi, giọng khản đặc. Vị linh mục quay lại, khẽ gật đầu, mắt nheo lại vì nắng loá, đợi Kingderman bắt kịp mình rồi ra dấu cho ông ta đi theo lúc ông bắt đầu di chuyển trở lại. “Ông không phiền chứ? Tôi sắp cóng người đây”, vị linh mục hổn hển. “Có chứ, dĩ nhiên là phiền rồi”, nhà thám tử trả lời, vừa gật đầu với vẻ co rúm thiếu nhiệt thành vừa thọc hai tay vào túi. Màn đi bộ từ bãi đậu xe đến đây đã làm ông ta mệt đừ. “Ta, ta đã gặp nhau chưa nhỉ?” vị linh mục Dòng Tên hỏi. “Chưa đâu, cha. Chưa, nhưng người ta bảo trông cha như một võ sĩ quyền Anh, một linh mục nào đó ở khu cư xá, tôi quên mất tên”. Ông đang mãi rút ví ra. “Tôi rất dở ba cái vụ tên tuổi này”. “Còn tên ông?” “Willie Kingderman, thưa cha”. Ông nhá chứng minh thư. “Ban Điều Tra Án Mạng”. “Thật sao?” Karras nhìn kỹ phù hiệu và thẻ chứng minh thư với vẻ chăm chú sốt sắng như một cậu bé. “Chuyện này nghĩa là sao?” “Này, chắc cha cũng biết đôi điều đấy chứ, thưa cha?” Kingderman đáp, vừa quan sát nét mặt phong trần của vị linh mục Dòng Tên. “Đúng thật, cha giống y như một võ sĩ quyền Anh. Xin cha tha lỗi, cái vết sẹo đó – cha biết – cạnh mắt đó”, ông ta chỉ trỏ. “Giống Brando trong phim Waterfront quá, đúng là giống hệt Marlon Brando. Người ta cũng tạo cho nàng một vết sẹo”. Ông ta minh họa bằng cách kéo khóe mắt mình ra. “Khiến cho mắt anh ta trông hơi hí một chút xíu thôi, khiến anh ta lúc nào trông cũng có vẻ mơ màng, lúc nào cũng buồn thảm. Đó, đúng là cha đó…” Ông ta nói, chỉ trỏ: “Cha là Brando. Thiên hạ nói về cha như vậy, phải không cha?” “Không, họ không hề”. “Có bao giờ cha đấu quyền Anh chưa?” “Ồ, chút đỉnh”. “Cha người ở đây. Quận này?” “New York”. “Golden Gloves, đúng không?” “Ông xứng đáng lên đại úy lắm”. Karras mỉm cười. “Nào, bây giờ tôi giúp gì được cho ông đây?” “Làm ơn đi chậm hơn một chút. Bị bệnh khí thủng mà!” Nhà thám tử phác cử chỉ vào cổ họng mình. “Ồ, tôi xin lỗi”. Karras lơi bước. “Không hề gì. Cha có hút thuốc không?” “Có”. “Không nên hút”. “Thôi, có chuyện gì thì kể cho tôi nghe đi”. “Đã hẳn. Tôi đang lạc đề rồi. À này, cha bận à?” Nhà thám tử hỏi dò. “Tôi không quấy rầy đấy chứ?” “Quấy rầy cái gì?” Karras hỏi, vẻ sửng sốt. “Hừ, thì việc cầu nguyện thầm, chắc vậy?” “Chắc phải phong ông lên Đại úy”, Karras mỉm cười bí hiểm. “Xin lỗi, tôi có sơ sót điều gì chăng?” Karras lắc đầu, nhưng nụ cười vẫn còn vương vấn. “Tôi không tin là ông để sót điều gì hết”. Linh mục nhận xét, cái liếc xéo của ông về phía Kingderman đầy ranh mãnh và nhấp nháy một cách nhiệt tình. Kingderman dừng lại, hết sức cố gắng trong vô vọng mong tạo được một vẻ mặt ngơ ngác, nhưng nhìn đôi mắt đầy nếp nhăn của người tu sĩ, ông cúi đầu rầu rĩ. “À phải. Dĩ nhiên… dĩ nhiên vậy rồi… một nhà tâm thần học mà. Tôi đâu có giỡn mặt được”. Ông ta nhún vai. “Cha thấy, điều đó đã thành thói quen đối với tôi, thưa cha. Bỏ lỗi cho tôi. Cái trò tình cảm ủy mị, đó là phương pháp Kingderman: thuần túy là tình cảm ướt át. Được rồi, tôi sẽ thôi quanh co và nói thẳng với cha là việc gì”. “Mấy vụ phạm thánh”, Karras nói, gật gù. “Vậy là cái trò vặt tình cảm ủy mị của tôi hóa ra công cốc”, nhà thám tử nói khẽ. “Rất tiếc”. “Không hề gì, thưa cha, thế cho đáng đời tôi. Vâng, những vụ xảy ra trong nhà thờ ấy”. Ông xác nhận. “Đúng thế! Có lẽ chỉ có một điều khác nữa ngoài lề, một điều nghiêm trọng”. “Giết người?” “Phải, cha lại đá tôi một phát nữa, tôi khoái lắm”. “Chà, thì ban Điều Tra Án Mạng mà”. Vị tu sĩ Dòng Tên nhún vai. “Không sao, không sao, thưa tài tử Marlon Brando, không sao cả. Thiên hạ bảo là xét như một linh mục thì cha khá là ranh mãnh”. “Lỗi tại tôi mọi đàng”, Karras thầm thì. Dù lúc đó ông vẫn mỉm cười nhưng ông lấy làm hối hận vì có lẽ ông đã vô tình làm tổn thương tự ái của viên thám tử. Thực tâm ông không cố ý làm thế. Lúc này ông cảm thấy sung sướng có dịp bày tỏ một sự bối rối chân thành. “Dù vậy, tôi không hiểu được ý ông”. Ông nói thêm, không quên cau mày một phát. “Hai điều đó có liên quan gì không?” “Này thưa cha, ta có thể giữ kín điều này chỉ hai chúng ta biết được không? Giữ mật? Xem như một vấn đề xưng tội, có thể nói như vậy?” “Dĩ nhiên là được”. Vị linh mục sốt sắng nhìn nhà thám tử. “Chuyện gì vậy?” “Cha biết nhà đạo diễn đã từng làm phim ở đây không, thưa cha? Burke Dennings ấy?” “Ồ, tôi có gặp ông ta rồi”. “Cha đã gặp ông ta rồi”. Nhà thám tử gật đầu. “Cha cũng đã rành chuyện ông ta chết như thế nào rồi chứ?” “Thì, báo chí…” Karras lại nhún vai. “Báo chí chỉ nói phần nào thôi”. “Thế nữa?” “Chỉ phần nào thôi. Chỉ một phần không hơn. Này cha, cha biết gì về đề tài phù thủy?” “Cái gì?” “Nghe đây, cứ kiên nhẫn, tôi đang muốn phăng đến một điều nào đó. Bây giờ thì làm ơn nói về vụ phù thủy đi. Cha có rảnh không?” “Chút đỉnh”. “Trên phương diện hoạt động của bọn phù thủy, chứ không phải về việc săn bắt họ đâu”. “Ồ, tôi đã có lần viết sách khảo cứu về đề tài ấy”, Karras cười, “trên khía cạnh tâm thần học”. “Ồ, thật sao? Tuyệt quá! Cừ quá đi thôi! Đúng là một phần thưởng cho tôi. Một điểm A cộng. Cha có thể giúp ích tôi rất nhiều, rất nhiều hơn chỗ tôi tưởng. Nào, cha, nói về thuật phù thủy…” Ông với tay nắm chặt lấy cánh tay vị linh mục Dòng Tên lúc họ đi quanh một khúc rẽ và đến gần chiếc ghế đá. “Như tôi đây, một kẻ tầm thường, và nói trắng ra, không được học hành nhiều cho mấy, xét về mặt giáo dục trường lớp, khoa bảng. Không thật. Nhưng tôi chịu đọc. Vâng, tôi biết người ta thường nói thế nào về những kẻ tự lập, người ta hay bảo rằng họ là những thí dụ điển hình đến khiếp về sự lao động không kỹ năng. Tôi không xấu hổ. Không hề. Tôi..” Chợt ông chận ngang trớn nói, nhìn xuống và lắc đầu. “Lại tình cảm ủy mị nữa rồi. Đúng là thói quen mà. Tôi không cách gì chữa được cái trò tình cảm ủy mị này được. Chà, xin bỏ lỗi cho, cha đang bận rộn quá”. “Vâng, tôi đang cầu nguyện”. Câu nói nhỏ nhẹ của vị tu sĩ khô khốc và vô hồn. Kingderman dừng lại chốc lát mà ngó ông. “Cha nói thật đấy chứ?” “Không?” Nhà thám tử lại nhìn ra trước và họ tiếp tục đi. “Đây, tôi xin nói vào đề, những vụ phạm thánh. Chúng có nhắc cho cha nhớ tới điều gì liên quan đến thuật phù thủy không?” “Có lẽ. Một vài nghi thức đã được sử dụng trong Lễ Đen”. “Một điểm A cộng nữa. Bây giờ tới Dennings. Cha đã đọc báo thấy ông ta chết ra sao rồi chứ?” “Vì một cái ngã”. “Đây, tôi nói cha nghe, và xin giữ mật đấy nhé?” “Dĩ nhiên”. Nhà thám tử có vẻ đau khổ vì ông nhận ra là Karras không hề có ý muốn dừng ở ghế đá. “Cha có phiền không?” Ông hỏi, vẻ mong ngóng. “Gì cơ?” “Ta dừng lại được không? Có lẽ ngồi xuống?” “Ồ, được chứ”. Họ bắt đầu vòng lại chiếc ghế đá. “Cha sẽ không bị cóng chứ?” “Không đâu, bây giờ tôi khỏe rồi”. “Cha chắc chứ?” “Tôi khỏe mà”. “Được rồi, được rồi, nếu ý cha đã quyết”. “Lúc nãy ông đang nói gì nhỉ?” “Xin chờ cho một giây, một giây thôi mà”. Kingderman đặt tấm thân mỏi nhừ của ông lên ghế đá với một tiếng thở dài mãn nguyện. “Chà, khá hơn rồi, có khá hơn rồi”. Ông nói lúc vị linh mục Dòng Tên nhặt chiếc khăn lên lau khuôn mặt đẫm mồ hôi của mình. “Đang độ trung niên thật là một cuộc đời!” “Burke Dennings hả?” “Burke Dennings, Burke Dennings, Burke Dennings…” nhà thám tử gật đầu, ngó xuống giày. Rồi ông ngẩng lên nhìn Karras, vị linh mục đang lau gáy. “Thưa cha nhân lành, Burke Dennings đã được tìm thấy ở chân dãy bậc cấp dài dằng dặc ấy đúng bảy giờ năm phút, đầu vặn tréo ngoe ra đằng sau”. Những tiếng la hét loáng thoáng vẳng ra từ sân dã cầu, nơi đội bóng Đại học tập dượt. Karras ngừng lau, chịu đựng tia nhìn đăm đăm của viên trung úy. “Điều đó đã không xảy ra trong khi ngã chứ?” Rốt cuộc ông lên tiếng. “Cái chắc là có thể xảy ra trong lúc ngã lắm chứ”. Kinderman nhún vai. “Nhưng mà…” “Không có lẽ nào”. Karras suy nghĩ. “Vậy cha nghĩ sao về điều đó, trong nội dung của thuật phù thủy?” Vị linh mục chậm rãi ngồi xuống, lộ vẻ đăm chiêu. “Chà”, cuối cùng ông nói, “cứ giả thiết như là bọn quỷ dữ đã vặt gãy cổ các phù thủy theo cách đó. Chí ít thì thần thoại cũng đã kể lại như vậy”. “Một thần thoại ư?” “Ồ, phần lớn là vậy”. Vị linh mục quay sang Kinderman. “Mặc dù con người ta quả đã có kẻ chết y như cách đó thật, tôi nghĩ vậy, có thể lắm, đó là những hội viên của một ổ phù thủy đào thoát hoặc đã tiết lộ bí mật của tổ chức. Đó chỉ là một sự phỏng đoán thôi. Nhưng tôi biết rõ đó chính là dấu ấn của bọn sát nhân thờ quỷ dữ”. Kinderman gật đầu. “Chính xác. Chính xác lắm. Tôi nhớ lại một vụ giết người tương tự đã xảy ra ở London. Xảy ra vào thời đại bây giờ. Tôi muốn nói là mới dạo gần đây, mới bốn, năm năm trước đây thôi, thưa cha. Tôi nhớ là tôi đã đọc thấy việc đó trên báo chí”. “Vâng, tôi cũng có đọc, nhưng thiết tưởng chuyện đó hóa ra chỉ là trò đùa dai mà thôi. Tôi có lầm không ạ?” “Không đâu, đúng như thế, cha ạ, hoàn toàn đúng như cha nghĩ. Nhưng còn trong trường hợp này thì chí ít, người ta cũng thấy được đôi chỗ tương quan, có lẽ thế, giữa vụ đó và những việc xảy ra trong nhà thờ. Có lẽ một kẻ nào đó điên rồ, thưa cha, một kẻ nào đó đem lòng thù oán giáo hội. Một cuộc nổi loạn từ tiềm thức, có lẽ thế”. “Một linh mục bệnh hoạn”, Karras thì thầm. “Hẳn thế?” “Này cha, cha là một nhà tâm thần học, cha hãy nói cho tôi nghe đi”. “Dĩ nhiên thôi, các hành vi xúc phạm thần thánh rõ ràng là có tính cách bệnh lý”. Karras trầm ngâm nói, vừa mặc vội chiếc áo len vào. “Và nếu quả thật là Dennings đã bị giết chết thì, tôi đoán rằng kẻ sát nhân cũng là một kẻ bệnh hoạn mà thôi”. “Và có lẽ y có chút kiến thức về thuật phù thủy”. “Có thể”. “Có thể”, nhà thám tử lầu bầu. “Vậy thì ai đó hội đủ tiêu chuẩn, chắc cũng chỉ sống nội trong vùng này thôi, và đã lẻn vào nhà thờ trong đêm hôm đó?” “Một linh mục bệnh hoạn” Karras nói, rầu rĩ với tay lấy chiếc quần kaki đã bạc phếch ra vì nắng gió. “Xin cha hãy nghe đây, tôi nói điều này hẳn sẽ rất khó chịu đối với cha, tôi hiểu lắm. Nhưng đối với các linh mục đang sống trong khuôn viên trường Đại học này, cha là một bác sĩ tâm thần, một vị cố vấn về các vấn đề tâm linh, thưa cha, hẳn là cha…” “Không, tôi đã thay đổi nhiệm sở rồi”. “Ủa, thật sao? Ngay giữa năm như thế này à?” “Đó là lệnh Bề Trên”. Karras nhún vai lúc ông xỏ quần vào. “Dù vậy, cha hẳn biết vào thời điểm đó những ai là kẻ bệnh hoạn và những ai không chứ, đúng không? Tôi muốn nói là cái loại bệnh đó. Cha đã biết rồi”. “Không, không nhất thiết đâu, thưa Trung úy. Tuyệt không. Sự thật là nếu quả tôi có biết đi nữa thì cũng chỉ là chuyện tình cờ. Ông thấy đó, tôi không phải là nhà phân tâm học. Tất cả công việc tôi làm là giúp ý kiến. Vả lại”, ông vừa bình luận vừa cài cúc quần, “tôi thật sự không biết người nào khớp với điều mô tả trên cả”. “À phải, nguyên tắc đạo đức của người bác sĩ. Nếu cha có biết, chắc cha cũng chẳng nói”. “Đúng thế, có thể lắm là tôi không nói”. “Nhân tiện – Và tôi cũng xin đề cập đến để nghe chơi thôi – Cái nguyên tắc đạo đức này dạo gần đây đã được xem là bất hợp pháp rồi. Không dám quấy rầy cha vì những chuyện vụn vặt, nhưng xin thưa với cha rằng mới đây một bác sĩ tâm thần ở California ngập nắng, đúng thế đó, đã bị tống giam vì không chịu khai báo với cảnh sát những điều ông ta biết về một bệnh nhân”. “Một lời đe dọa chăng?” “Đừng có nói chuyện điên. Tôi chỉ đề cập đến nghe chơi vậy thôi”. “Lúc nào tôi cũng có thể trình bày với quan tòa rằng đó là một bí mật của tòa giải tội được”. Vị linh mục Dòng Tên nói, vừa cười gượng gạo lúc ông đứng lên bỏ áo vào quần. “Thẳng thắng mà nói là như vậy”, ông nói thêm. Nhà thám tử ngước nhìn ông, có phần ảm đạm. “Thưa cha, cha muốn ta bàn chuyện nghiêm chỉnh chứ?” Ông ta hỏi. Rồi ông nhìn chỗ khác, vẻ buồn nản. “Cha… Cha gì nhỉ?” Ông hỏi như đánh đu với chữ nghĩa. “Cha là một người Do Thái, mói gặp cha là tôi biết ngay”. Vị linh mục cười khan. “Ừ, cười đi”. Kinderman bảo. “Cứ cười đi”. Nhưng sau đó ông ta mỉm cười, có vẻ hài lòng với chính mình một cách ranh mãnh. Ông quay lại với ánh mắt rạng rỡ. “Điều này làm tôi nhớ lại kỳ thi tuyển vào ngành cảnh sát, thưa cha, lúc tôi thi có một câu hỏi đại để như thế này: ‘Rabies là gì và các anh sẽ làm gì với chúng?’ Cha có biết một tên đầu bò hạ bút trả lời như thế nào không? Anh chàng này tên là Emis thì phải? ‘Rabies’ anh ta viết, ‘là các tu sĩ Do Thái giáo, và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ họ’, tôi nói thật đó!” Ông ta giơ một tay lên thề. Karas cười. “Nào, tôi đưa ông ra xe đây, xe ông đậu ngoài bãi phải không?”