buột miệng vì bực bội, vừa lôi toạt bức thư ra khỏi trục máy chữ. Cô vò viên nó lại rồi ném nó vào giỏ rác cạnh Kinderman. “Ôi, tôi xin lỗi”. Cô tạ lỗi lúc nhận ra tiếng rủa bực dọc của cô đã làm gián đoạn câu chuyện của họ. Chris và Kinderman đều nhìn trừng trừng. “Cô là Fenster?” Kinderman hỏi cô gái. “Spencer”, Sharon lên tiếng, vừa kéo ghế chớm đứng lên ra nhặt bức thư. “Không sao, không sao”, Kinderman nói, vừa với tay xuống sàn gần chỗ chân và nhặt tờ giấy vò nhàu lên. “Cám ơn”, Sharon nói. “Không có chi. Xin lỗi. Cô là thư ký?” “Sharon, đây là..” “Kinderman”, nhà thám tử nhắc nàng. “William Kinderman”. “Được rồi. Còn đây là Sharon Spencer”. “Hân hạnh”, Kinderman ngỏ lời cùng cô gái tóc vàng lúc này đã khoanh tay trên bàn máy chữ, nhìn nhà thám tử với vẻ hiếu kỳ. “Có lẽ cô có thể giúp ích được”, ông nói thêm. “Vào đêm ông Dennings qua đời, cô rời nhà đi ra hiệu thuốc, để ông ta lại một mình ở nhà, đúng không?” “Ồ không, có Regan ở đây nữa”. “Đó là con gái tôi”. Chris nói rõ. Kinderman tiếp tục hỏi Sharon. “Ông ta đến gặp bà MacNeil?” “Vâng, đúng thế”. “Ông ta mong là bà MacNei sẽ về sớm?” “Vâng, tôi có bảo ông ta là chắc chị ấy sẽ về ngay đấy thôi”. “Tốt lắm. Còn cô rời nhà lúc mấy giờ? Cô nhớ chứ?” “Để xem. Lúc đó tôi đang xem phần tin tức, cho nên tôi nghĩ – Ồ không, hượm đã – phải rồi, đúng rồi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi bực mình vì nhà bào chế bảo là nhân viên giao hàng của họ đã ra về rồi. Tôi nhớ mình đã nói. ‘Ủa, mới bây giờ ấy à’, một câu gì đại loại là mới có 6 giờ 30 phút. Thế rồi Burke đến đúng mười phút hay hai mươi phút sau đó”. “Vậy thì bù qua sớt lại”, nhà thám tử kết luận, “cứ cho là ông ta đã đến đây hồi 6 giờ 45 phút đi”. “Thế tất cả mọi chuyện này là nghĩa gì?” Chris hỏi, nổi căng thẳng ảm đạm trong người nàng càng lúc càng tăng. “Vâng, điều đó đặt ra một câu hỏi, thưa bà MacNeil”. Kinderman nói, giọng khản đặc, quay đầu lại nhìn nàng. “Đến nhà này cứ cho là vào lúc 7 giờ kém 15 phút và chỉ 20 phút sau đã cáo lui rồi…” “Ồ, thì Burke là thế đó”. Chris đáp. “Đúng anh ta là như thế”. “Cũng đúng là ông Dennings”, Kinderman hỏi, “hay lui tới các quán rượu trên phố M. chứ?” “Không”. “Không, tôi đã nghĩ là không. Tôi đã làm một kiểm chứng nhỏ. Và cũng đúng là ông ta không có thói quen di chuyển bằng taxi chứ? Cũng đúng là ông ta không từ nhà gọi một chiếc taxi lúc ông ta cáo lui đấy chứ?” “Có, ông ta có gọi”. “Thế thì người ta phải thắc mắc – phải không nào? – là làm thế nào ông ta lại cuốc bộ tà tà trên thềm đường ở đầu dãy bậc cấp ấy, và người ta phải thắc mắc tại sao các hãng taxi lại không thể xuất trình được một hồ sơ ghi lại những cú điện thoại gọi thuê xe phát xuất từ ngôi nhà này vào đêm hôm ấy chứ?” Kinderman nói thêm, “ngoại trừ có một cú gọi cho chiếc taxi đã đến đón cô Spencer của bà đây vào lúc đúng 6 giờ 47 phút?” “Tôi không biết”, Chris đáp, giọng nàng không còn chút sinh khí… và nàng chờ đợi. “Ông đã biết hết mọi chuyện!” Sharon há hốc nhìn Kinderman, đầy bối rối. “Vâng, xin bà bỏ lỗi cho tôi”, nhà thám tử bảo cô gái. “Tuy nhiên, sự việc bây giờ đã trở nên nghiêm trọng”. Chris thở không đầy hơi, mắt dán vào nhà thám tử. “Về phương diện nào?” nàng hỏi. Giọng nàng thều thào trong họng. Ông nghiêng người qua, đôi tay vẫn chắp trên bàn, trang giấy đánh máy vo tròn giữa đôi tay ông. “Thưa bà MacNeil, bản phúc trình của chuyên viên bệnh lý dường như đã chứng tỏ rằng vẫn rất có thể cái chết của ông ta là do tai nạn. Tuy nhiên…” “Có phải ông định nói là anh ta đã bị giết không?” Chris căng thẳng. “Tư thế – tôi biết điều này thật rất đau đớn…” “Cứ nói”. “Tư thế đầu của Dennings và vết lột của các cơ bắp trên cổ đã…” “Ôi, Chúa ơi!” Chris rúm người lại. “Vâng, thật là đau xót. Tôi rất tiếc. Tôi thật hối tiếc kinh khủng. Nhưng bà thấy đó, một tình trạng như vậy ta có thể bỏ qua các tiểu tiết không bao giờ có thể xảy ra trừ phi ông Dennings đã bị ngã và rơi qua một khoảng cách nào đó rồi mới chạm vào bậc cấp, ví dụ như rơi khoảng bảy hay mười thước trước khi lăn lông lốc xuống đến chân bậc cấp. Như vậy, một khả năng hiển nhiên, nói trắng ra có lẽ là… Chà, trước hết để tôi hỏi cô đã…” Lúc này ông quay sang một cô Sharon đang cau mày. “Lúc cô rời nhà, thì ông ta ở đâu, ông Dennings ấy? Với đứa trẻ chăng?” “Không, ông ta ở trong văn phòng ngay dưới này. Ông ta đang pha rượu uống”. “May ra con gái bà còn nhớ”, ông quay sang Chris, “là ông Dennings có ở trong phòng cô bé đêm đó hay là không chăng?” Không biết con bé có từng ở một mình với anh ta không? “Sao ông hỏi vậy?” “May ra con gái bà còn nhớ chăng?” “Không đâu, tôi đã bảo ông rồi, cháu đã được chích thuốc an thần với liều lượng mạnh, và…” “Vâng, vâng, bà đã kể cho tôi rồi, đúng vậy. Tôi nhớ rồi. Nhưng có lẽ cô bé có tỉnh giấc chăng, và…” “Không thể có chuyện đó. Và…” Ông ta ngắt ngang. “Vậy lần trước chúng ta nói chuyện với nhau, cô bé cũng được tiêm thuốc an thần đấy chứ?” “Thì, vâng, đúng là cháu đã được chích thuốc”, Chris hồi tưởng. “Vậy thì sao?” “Tôi nghĩ là tôi có trông thấy cô bé nơi cửa sổ phòng vào ngày hôm ấy”. “Ông lầm rồi”. Ông ta nhún vai. “Có thể lắm. Có thể lắm. Tôi không dám chắc”. “Nghe đây, tại sao ông lại hỏi mọi chuyện này?” Chris căn vặn. “Vâng thì, một khả năng thấy rõ, như tôi đã nói đó, là có lẽ người chết đã quá say đến độ ông ta vấp chân và ngã xuống từ phòng ngủ của con gái bà chứ sau”. Chris lắc đầu. “Tuyệt không. Không thể có trường hợp đó. Trước hết, cửa sổ phòng đó luôn luôn đóng kín, hai nữa, Burke bao giờ cũng say, nhưng anh ta không bao giờ bất cẩn chút nào. Đúng không, Shar?” “Đúng vậy”. “Burke thường đạo diễn phim khi anh ta say mèm. Vậy thì có lý nào anh ta lại sẩy chân và rơi ra ngoài cửa sổ được”. “Có thể đêm đó bà đang chờ đợi một ai khác nữa không?” Ông ta hỏi nàng. “Không”. “Bà có người bạn nào ghé thăm mà không thông báo trước không?” “Chỉ có Burke thôi”, Chris trả lời. “Sao vậy?”