ụi. Từ đó ông mua được ruộng được trâu, đời sống trở nên sung túc. Nhà bà Minh cũng là một ví dụ về những người tin vào cái giếng. Con trai bà bị bệnh dở, tức là nhiều lúc nó không bình thường. Bà cũng ra cầu cái giếng. Cái giếng phán bà phải mở trường làng cho lũ trẻ. Bà vay tiền xây một khu nhà trên mảnh vườn, rồi thuê thầy đến dạy học cho đám trẻ trong làng. Mấy năm sau, có ông thầy đến đó dạy, cảm phục tấm lòng bà, cho bà một cái đơn thuốc gia truyền. Con trai bà uống hai năm, bệnh đỡ nhiều, cũng biết đọc biết viết, giờ vào làm việc trên huyện nha. Cái giếng sẽ tuyệt vời biết bao nếu không xảy ra những chuyện gần đây. Vào một đêm trời gần về sáng, cô Quy lại như thường lệ lại mang rau ra giếng Đá rửa trước khi bán ở chợ. Cái giếng gắn bó với làng đã qua nhiều thế hệ và trở thành một nét sinh hoạt riêng của làng, mọi công việc từ nấu ăn, tắm rữa đều lấy nước từ giếng. Cô Quy thả gầu xuống giếng múc nước. Kì lạ, chiếc gầu không chạm mặt nước mà va phải vật gì cứng làm phát ra tiếng lộp cộp. Thấy lạ cô Quy cúi đầu nhòm xem xem vật gì dưới giếng. Và cô há hốc mồm khi dưới giếng là một cái đầu mèo to. Hai mắt nó sáng như hai ngọn đèn màu trắng. Nó nhìn cô chằm chằm. Không thể nói hết nỗi sợ hãi của cô Quy lúc này, cô vội vứt gầu, vứt cả rau, chạy một mạch về nhà và kể lại mọi chuyện cho chồng con nghe. Sáng hôm sau cả làng ai cũng biết chuyện cô Quy gặp ma. Một số người xuống giếng để tìm xem có mèo chết dưới đó không, nhưng chẳng thấy gì. Đêm hôm đó, cô Quy mất tích. Cả làng nhốn nháo đi tìm.Chồng con cô sợ ma bắt, ra giếng tìm nhưng cũng chả thấy. Ba ngày sau, cô Quy tự nhiên trở về. Ai hỏi ba ngày nay ở đâu làm gì thì cô cứ bảo là không nhớ. Có người ác độc trong làng còn nói rằng cô bịa chuyện ma để đi ở nhà tình nhân nhưng hầu hết mọi người đều tin lời cô. Cô Quy trở về thì đêm ấy lại có người mất tích. Lần này là ông Cà nhà cuối xóm. Nghe đâu buổi tối ông ra giếng lấy nước về nấu cháo cho con dâu mới đẻ. Ông Cà cũng đi một lần ba ngày. Khi trở về ông cũng giống cô Quy, tức là không nhớ một chút gì. Rồi đến lượt bé Tâm, rồi bà Hồng, tất cả đều được cái giếng cho đi chơi ba ngày. Dân làng sợ lắm, biết ở trên huyện có thầy bắt ma rất giỏi, liền mời thầy về làng. Minh Dũng sau khi chia tay Minh Khánh, Minh Long ở huyện Nha Nghi, liền qua sông đến huyện Tân Phúc. Gã một mặt trừ ma bắt quỷ, một mặt tuyên dương phái Phổ Linh. Sau khi sư thúc mở cửa địa ngục, ma quỷ cũng bắt đầu nhiều lên, uy tín của gã càng lúc càng cao, đến dân ở các nơi khác cũng biết tiếng Minh Dũng. Dân xóm Tả Nguyên đến mời Minh Dũng đi bắt ma. Gã cũng không từ chối. Trước khi đến gã dặn dân trong làng chuẩn bị trước chó, gà, tiền vàng các loại lễ cúng. Xong xuôi, gã mới thu thập hành lí, mang theo lệnh bài, kiếm, một ít tà vật bùa chú đến. Hôm mà Minh Dũng đến nơi thì lại có người bị cái giếng bắt. Lần này là một thanh niên trẻ khỏe ra gánh nước buổi trưa. Minh Dũng quyết chí tìm cho ra con ma. Gã bắt đầu điều tra về nguồn gốc cái giếng, cả những người từng bị giếng bắt. Qua điều tra gã phát hiện một điều, cái giếng đã có từ khoảng ba trăm năm trước, và việc người bị bắt như thế này xảy ra lần đầu. Minh Dũng kiểm tra những người bị bắt. Bọn họ đều thật sự không nhớ gì trong thời gian ba ngày biến mất. Lúc trở về thứ duy nhất bọn họ cảm thấy là.. ‘đói’. Trên người bọn họ cũng không hề có một chút âm khí, oán khí nào. Minh Dũng cho kết luận là dưới giếng có một con yêu quái, hoặc bản thân cái giếng chính là yêu quái. Thầy trừ tà, nhất là những người có tâm chí kiên định, lại có bảo vật hộ thân như Minh Dũng, làm sao có thể sợ yêu quái. Gã bèn giắt kiếm bên hông, một tay cầm lệnh bài, lặn xuống giếng. Suốt hai ngày, Minh Dũng không tìm ra con yêu quái đâu. Hắn chỉ cảm thấy cái giếng được bao bọc bởi một loại trận pháp rất inh. Tối hôm đó, Minh Dũng lại ra giếng. Gã hi vọng ban đêm âm khí nhiều sẽ dễ dàng tìm được con yêu quái. Lúc gần tới cái giếng, Minh Dũng chợt thấy một cái bóng người xiêu vẹo đi trên thành giếng. Gã hỏi : “Ai đấy?” Người đó giật mình ù té chạy. Minh Dũng rút kiếm gỗ đuổi theo. Người đó chạy được mấy bước thì ngã vào một bụi cây. Minh Dũng từ từ tiến lại, hai mắt mở to. Gã muốn xem kẻ đó là người hay quỷ. Đột nhiên trong lúc này có một âm thanh kỳ lạ dưới giếng vọng lên. Minh Dũng cảm thấy đầu óc trở nên mơ hồ, giống như lúc say rượu. Tiếp đó gã cảm thấy mình muốn ngủ và không biết chuyện gì diễn ra tiếp sau nữa. Lúc Minh Dũng tỉnh lại thì gã cũng đã được cái giếng cho đi chơi ba ngày. Gã chỉ nhớ mang máng là bị kéo vào một nơi tăm tối, sau đó suốt ba ngày có ai đó thẩm vấn gã. Từ chuyện môn phái đến chuyện bắt ma, rồi cả chuyện tình yêu vợ con nữa. Gã còn nhớ được giọng nói the thé của con yêu quái. Suốt ba ngày Minh Dũng chỉ được nó cho uống nước, cơm thì không được ăn. Ba ngày sau con yêu quái bỏ lại Minh Dũng bên thành giếng. Cái kiếm và lệnh bài của chưởng môn vẫn nguyên vẹn trong tay, chỉ có điều ký ức của gã giống như bị một cái gì tẩy xóa khiến chỉ nhớ mang máng về chuyện đó. Trở về Minh Dũng lại lặn xuống giếng tìm con yêu quái thêm một ngày nhưng vẫn không tìm được gì. Quá thất vọng gã chào từ biệt trưởng làng rồi quay về huyện Tân Phúc, hi vọng kiếm thêm được trợ thủ. Thấy sư đệ đã về đến nơi, Minh Dũng mừng lắm chạy sang, rồi nhân dịp uống trà thì kể chuyện này cho sư đệ Minh Khánh thấy việc này rất kỳ quái, bèn nói mai hai anh em đi xóm Tả Nguyên xem hư thực thế nào. Thế là mờ sáng, lúc thành vừa mở cửa, có hai người đạo sĩ vội vã đi ra. Bọn họ thuê một cái xe bò đến xóm Tả Nguyên. Tới nơi, hai người không đi đến cái giếng mà vòng quanh xem địa thế, phong thủy của làng. Người trong làng thấy Minh Dũng quay lại, hồ hởi chào gã. Bọn họ hi vọng vào ‘thầy’ lắm. Nói chuyện với họ, Minh Dũng mới biết sau khi hắn trở về, lại có người phải thế chỗ hắn. Đó là một người khách ở nơi xa tìm đến cầu nguyện. Dân làng vừa thấy y bày đồ cúng xong, ngoảnh đi ngoảnh lại chả thấy người đó đâu nữa. Xem xét hết địa thế rồi, Minh Khánh và Minh Dũng mới bắt đầu ra giếng. Cả xóm xúm lại xem hai thầy cởi trần, tay cầm kiếm tay cầm bùa lặn xuống. Dưới giếng rất ấm áp. Nước từ mạch ngầm trào ra liên tục hai người mãi mới mò được xuống đáy. Lúc lên Minh Khánh nói với Minh Dũng: -“Sư huynh, cái giếng này một cái phong ấn rất mạnh. Nó dựa vào một cái trận pháp gọi là thủy thổ mộc liên hoàn trận. Thành giếng chắc hẳn là làm từ một loại gỗ quý chuyên để trấn áp tà ma. Đất xung quanh cái giếng cũng là một loại đất lấy từ chiến trường, có khả năng đàn áp hết mọi thứ pháp thuật. Loại trận pháp này đã thất truyền hơn một trăm năm rồi, không ngờ vẫn còn thấy xuất hiện ở đây.” Minh Dũng nói: – “Sư huynh đã điều tra rồi, cái giếng này có từ ba trăm năm trước, cho đến nay vẫn giữ nguyên như ban đầu. Dân làng đến ngày rằm tháng sáu chỉ tổ chức lau chùi dưới đáy thôi chứ không đụng chạm gì đến giếng cả.” Minh Khánh gật đầu. – “Có khả năng trải qua ba trăm năm, đất quanh giếng bị đồng hóa nhiều, không còn đủ khả năng trấn áp tà ma nữa, khiến cho con yêu quái dưới đáy có thể sử dụng pháp thuật xuyên qua phong ấn. ” Minh Dũng hỏi: “Bây giờ làm sao?” Minh Khánh trả lời: “Phải xuống dưới đấy tìm con yêu quái thôi. Lúc nãy sư đệ thấy dưới đáy giếng có một cái vùng rất tối chứa nhiều yêu khí. Đó hẳn là nơi con yêu quái ở.” Minh Dũng gật đầu : “Âm nhãn của sư đệ nhìn thấy chắc là không sai. Chỉ có điều chúng ta xuống bằng cách nào.” Minh Khánh nói: “Chỉ cần chặn mạch nước lại, phong ấn sẽ mất đi năng lượng để vận chuyển. Chúng ta sẽ lợi dụng kẽ hở của trận pháp để đi vào. Đệ chỉ lo không đấu được con yêu quái dưới giếng mà thôi. ” Minh Dũng cau mày lại, khuôn mặt gã đầy lo lắng. Gã từng bị con yêu quái thôi miên môt lần mà chả hiểu tại sao. Minh Khánh an ủi gã: “Sư huynh không cần lo lắng quá. Chúng ta bắt ma quỷ cả chục năm, chẳng lẽ hai người lại sợ một con yêu đã bị giam cầm ba trăm năm?” Minh Dũng trả lời: “Sư đệ, con yêu quái này bị giam ba trăm năm vẫn sống sót, phép thôi miên của nó cũng rất lợi hại. Chúng ta nên cẩn thận vẫn hơn.” Minh Khánh cười: “Phép thôi miên của con yêu quái này sư đệ đã gặp qua mấy lần. Sư huynh không biết nên mới bị trúng thôi. ” Minh Dũng ngạc nhiên lắm: “Sư đệ biết nó làm phép thế nào?” Minh Khánh cười to: “Đơn giản lắm, sư huynh cũng biết, có rất nhiều loại động vật có thể phát ra những thứ âm thanh mà tai người không thể nghe thấy, như dơi, hoặc cá heo chẳng hạn. Có những loại yêu quái có thể phát ra loại âm thanh hệt như thế, nhưng lợi hại hơn nhiều. Nó khiến chúng ta trở nên mê muội, thậm chí có thể điều khiển được người nghe. Kẻ bị hại cũng không hề biết mình đang bị thôi miên cho đến khi con yêu quái bắt đầu khống chế được đầu óc họ. Muốn chống lại loại thôi miên này chỉ cần phong bế thính giác là được.” Minh Dũng nghe thế mừng lắm, nói: “Vậy trưa ăn cơm xong chúng ta xuống dưới đó. Sư huynh muốn thử xem bản lĩnh của con yêu quái lợi hai tới mức nào mà dám bắt sư huynh những ba ngày.” Trưa hôm đó, hai người được dân làng thết một bữa no. Cơm nước xong xuôi, hai người nhảy xuống giếng. Sau khi Minh Dũng sử dụng phép thuật ngăn chặn mạch nước ngầm, tự nhiên trên thành giếng lộ ra một cái hang nhỏ, đủ ột người đi vào. Hai người theo từng bậc thang đá ẩm ướt đi xuống. Bên dưới là một cái động vuông vắn, hẳn là do con người tạo ra. Hai người bước trong bóng tối. Nơi đây vừa ẩm ướt lại có nước giọt từ trên đầu xuống có vẻ lạnh lẽo. Đá lửa bị ướt khiến Minh Dũng không thể đốt đèn lên. Gã đành rón rén lần mò trong bóng tối. Bỗng Minh Dũng dẫm phải một cái gì đó mềm mềm. “Méo” Có tiếng con gì kêu lên. Minh Dũng sợ lắm vung kiếm chỉ vào vật đó. Minh Khánh cúi xuống, bế nó lên. Minh Dũng mới nhìn ra đấy là một con mèo đen béo ị. Hai mắt nó sáng trắng trong đêm tối. Con mèo nhìn Minh Dũng một cách thù hằn vì cái tội dẫm lên người nó. “Ngoáo.” Cái giọng của nó làm Minh Dũng thấy buồn cười. Đây hẳn là một con mèo thiến. Thông thường khi phong ấn ma quỷ, người ta thường để một con mèo đen hoặc chó đen trấn giữ, nhưng mèo thiến thì gã mới gặp lần đầu tiên. Hai người tiếp tục đi vào trong. Nơi đây chắc hẳn là ổ của con yêu quái, không chỉ có chăn gối mà cả một cái đệm nữa. Phía bên cạnh ổ có một người đang nằm, xem ra y là vị khách bất hạnh từ nơi xa đến cầu nguyện mà dân làng nói. Hai người đỡ y dậy. Hơi thở của người khách vẫn đều đều như đang ngủ. Xung quanh cái ổ đêu là vách đá. Minh Dũng kỳ quái lắm. Hắn lau khô viên đá lửa, bắt đầu châm đèn lên. Mãi rồi đèn cũng sáng. Minh Dũng tìm xung quanh một lúc lâu mới viết vào bàn tay Minh Khánh: “Xem ra con yêu quái không ở nơi đây.” Hai người vì phong bế thính giác nên phải dùng cách này để nói chuyện. Minh Khánh viết vào bàn tay gã. “Đệ không cảm giác thấy yêu khí.” Minh Dũng lại viết: “Có khi nào yêu quái lợi dụng lúc bọn ta ngưng phong ấn lại, trốn ra ngoài rồi không?” -“Không thể. Khi chúng ta dừng phong ấn, chỉ có một đường ra duy nhất. Kể cả khi con yêu quái dùng phép tàng hình, âm nhãn của đệ cũng sẽ nhìn thấy.” Minh Khánh viết vào tay Minh Dũng như thế. -“Vậy là con yêu quái đã thu hết yêu khí lại và nấp vào đâu đó?” -“Sư đệ cảm giác nó vẫn còn đâu đó quanh đây.” -“Vậy làm sao tìm ra nó?” -“Đệ sẽ đọc Hàng Yêu Kim Cô Chú.” -“Không được, nó sẽ làm hao tổn công đức của sư đệ. Để sư huynh đọc.” Nói rồi Minh Dũng ngồi xuống, hai chân xếp bằng. Đôi mắt gã nhắm lại, miệng hơi lẩm bẩm: “Công đức vô lượng, yêu ma quỷ quái …” Bỗng nhiên có tiếng ai đó vang lên trong đầu hai người, thanh âm vừa buồn phiền vừa tức giận: “Đừng đọc. Các người không còn trò gì khác hay hơn à?” Minh Dũng nghe vậy liền quát: “Yêu ma quỷ quái ở đâu mau hiện hình.” -“Ở trước mặt mi nè.” Minh Dũng nhìn quanh, cuối cùng thấy con mèo đen béo trên tay Minh Khánh. Nó trừng mắt le lưỡi với gã, rồi “Méo” một cái. Minh Dũng hỏi: “Mi là yêu quái?” Con mèo lại ‘méo’ một cái, lắc lắc cái đầu. “Trả lời bằng tiếng người.”Minh Dũng quát nó. “Ta không phải là yêu quái.” Trong đầu hai người lại có một giọng nói như thế. Minh Dũng hỏi lại. “Vậy mi là cái gì?” Con mèo vểnh râu lên. “Ta là mèo tiên.” Rồi lai lịch của con mèo được Minh Dũng khai thác triệt để. Thì ra con mèo này là một loại mèo trong truyền thuyết – linh miêu. Người ta cho linh miêu là đứa con sinh ra từ sự ‘yêu đương’ kỳ lạ giữa một con mèo cái đen tuyền với một con rắn hổ chỉ ăn loại thịt duy nhất là thịt cóc. Linh miêu ra đời không phải ở một làng xóm, ở một ngôi nhà có chủ nào hết, mà thường ra đời trong một ngôi miếu hoang, một bờ ao vắng, hoặc dưới một khu đầm lầy lau lách. Linh miêu thường có mắt sáng và chói rực trong bóng tối như hai cục ngọn đèn, phừng phừng lửa giận. Đó cũng là đôi mắt giúp loài mèo này có thể nhìn thấy và liên lạc được với ma quỷ vô hình, để cùng hợp lực khiến người chết ngồi dậy thành quỷ nhập tràng. Con mèo trên tay Minh Khánh chính là một con linh miêu như thế. Chỉ có điều nó may mắn hơn những con linh miêu khác, sinh ra ở một khu vườn hoang vắng bên trong kinh thành. Con mèo được một người làm vườn già nua chăm sóc, nuôi lớn. Ông đặt tên nó là Mun, một cái tên rất thông thường của loài mèo. Sau khi ông lão làm vườn chết đi, Mun phiêu bạt qua nhiều nơi. Đến năm Mun được năm mươi tuổi, Mun gặp được một tay đạo sĩ. Lão dạy cho Mun tu luyện thành yêu quái, dạy cho Mun nghe hiểu tiếng người. Lão nói Mun có tuệ căn, nếu chịu khó tu luyện sẽ thành tiên. Một ngày lão đi đâu về, hí hửng đem cho Mun một quyển sách, bảo là đây là sách dạy tiên thuật. Mun xem trên bìa sách có viết hai chữ: “Cấm Thư”. Mun tò mò lắm, mở ra đọc trang đầu tiên. Ai dè vừa đọc dòng đầu, thì Mun sợ quá, xù hết cả lông, vội gấp sách lại. Hàng chữ viết: “Tu đạo xưng hùng, dẫn đao tự cung.” Ai ngờ buổi tối khi nghe nói Mun không muốn tập luyện theo quyển sách, lão đạo sĩ mừng lắm. Lão nói Mun có ý chí rất kiên định, rất thích hợp để tu luyện Cấm Thư. Thế là lão vung dao cắt hộ Mun. Từ đấy Mun sống cuộc sống của mèo thiến. Tiếng ‘Ngoao’ oai hùng của Mun biến thành tiếng ‘Méo’ dài và the thé. Những tháng ngày hoan lạc thâu đêm với đám mèo cái trong vùng biến mất. Thay vào đó là cuộc sống chỉ ăn và ngủ. Bù lại, Mun học được bảy mươi hai phép thần thông biến hóa trong sách. Pháp lực của Mun tiến bộ theo từng ngày. Sau đó chán cuộc đời ăn và ngủ, Mun bỏ nhà đi bụi. Đó là những năm tháng tuyệt vời nhất trong đời của Mun. Mun ăn những thứ thức ăn ngon nhất, uống những thứ nước ngọt nhất, ngủ ngay trên chiếc giường êm nhất. Mun tung hoành khắp ba mươi sáu phố phường đất kinh thành và cả hoàng cung. Mãi cho đến khi vị vua chịu không nổi, bắt đầu cầu cứu người tu đạo thì cuộc sống sung sướng của Mun mới chấm dứt. Người tu đạo gửi đến ba vị thầy trừ tà giỏi nhất, bắt đầu truy bắt Mun. Mun chạy trốn, từ đất kinh thành qua mấy trăm dặm đến phủ lộ Bình An. Thế nhưng vẫn có một vị thầy trừ tà tìm được Mun. Niệm tình Mun chưa bao giờ hại người, ông ta phong ấn Mun dưới giếng, nói rằng đúng ba trăm năm sau sẽ có người tìm đến giải thoát cho Mun. Mun vẫn tin tưởng người đạo sĩ sẽ nói đúng, cho đến trước ngày hôm nay một tháng. Đó là ngày kỷ niệm tròn ba trăm năm Mun sống dưới giếng. Chẳng có ai đến đón Mun. Cuộc sống của Mun vẫn như cũ, tối tăm và lạnh lẽo. Mun tức giận đến điên lên, bắt đầu cố phá vỡ phong ấn. Phong ấn qua ba trăm năm đã yếu đi nhiều nhưng không đủ để Mun có thể thoát ra. Thứ duy nhất Mun chỉ có thể làm là ngắm nhìn bầu trời mỗi đêm. Cho đến lúc Mun nhìn thấy người phụ nữ được gọi là cô Quy, thì Mun mới nghĩ ra trò bắt người đem xuống giếng nói chuyện cho đõ buồn. Hiểu được nguồn cơn, Minh Khánh và Minh Dũng liền áp giải Mun lên mặt đất. Cả vị khách bất hạnh cũng được kéo lên. Dân làng thấy họ cứu được người thì mừng lắm, cho là bọn họ đã tiêu diệt thành công con ma dưới giếng, làm lợn chiêu đãi thầy. Bọn họ không để ý thấy lúc đưa tiễn hai thầy về huyện, trên xe bò còn có thêm một con mèo đen béo ị với chiếc vòng trên cổ dán đầy bùa chú. Sau khi về đến nhà trọ, Minh Dũng và Minh Khánh bàn nhau chuẩn bị cho ngày rằm tháng bảy. Rằm tháng bảy hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Đây cũng còn là ngày báo hiếu mà người trong Phật môn gọi là ngày lễ Vu Lan. Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt Phật nhìn khắp trời đất để tìm. Ông phát hiện mẹ vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở. Thế là ông đã xuống tận cõi quỷ dâng cơm mời mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ. Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông mạnh đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”. Cuối cùng mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này. Ngày lễ Vu Lan ra đời từ đó. Đối với thầy trừ tà, ngày rằm tháng bảy bao giờ cũng là ngày bận rộn và nguy hiểm nhất trong năm. Đó là ngày mà các loại quỷ đến gần với người bình thường nhất. Những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng bái thường đi khắp nơi để tìm kiếm thức ăn. Đó là những ngày mà loài Ngạ quỷ hay Ma đói thường từ âm ty quay về trần thế. Những kẻ thường tiếp xúc với cõi âm như thầy trừ tà sẽ là mục tiêu đầu tiên của chúng. Nếu như không đủ thức ăn, có thể chúng sẽ mời bạn làm người đồng hành. Nghĩa là bạn sẽ chết và cũng hóa thành Ngạ quỷ. Bù lại, đây là những ngày mà thầy trừ tà có thể kiếm được số công đức gấp mười gấp trăm những ngày khác trong năm. Minh Long cũng đã quay về. Ba anh em bắt đầu chia nhau đi mua và sắm sửa đồ cúng. Gạo, muối, tiền vàng, ngô khoai, bỏng gạo, kẹo đường chất đầy trong phòng. Nhưng mới đến ngày mười ba thì ba người đã phải họp nhau lại để đối phó với con ma đói ở nhà. Chuyện là hôm nay Minh Dũng đi gặp ông chủ nhà trọ mới biết mấy ngày gần đây tiền ăn ở của ba anh em tăng chóng mặt. Ông chủ nói dạo này trong có người gọi rất nhiều thịt cá ăn bữa phụ. Minh Dũng kinh ngạc lắm. Gần đây ba anh em chạy cuống chạy quít mua đồ cúng, các tài liệu làm bùa chú mệt gần chết, làm gì có ai thừa thời gian gọi đồ ăn bữa phụ. Chủ quán cho Minh Dũng xem danh sách: “Cá nướng, thịt rán, cá kho, thịt bò xào” toàn là món ngon, hơn nữa vào những thời gian cả ba anh em đi vắng. Không lẽ nhà có trộm? Chợt Minh Dũng nhớ ra một chuyện. Đó là bữa cơm cách đây ba hôm lúc Minh Long chưa trở về. Bữa cơm tối cũng không phải quá đạm bạc có rau có thịt. Một bát canh bí nấu thịt, một đĩa rau muống xào tỏi, một đĩa cà pháo, một đĩa đậu phụ luộc, một rổ rau sống và một bát mắm tép. Với nhiều gia đình nông dân, đây là cả một bữa tiệc. Minh Dũng và Minh Khánh ăn rất ngon. Nhưng có kẻ mất hứng, đó là Mun. Nó không ăn cơm mà chỉ nói một câu : “Tưởng chỉ có bò mới là loài ăn cỏ.” Rồi nhảy khỏi ghế, leo lên ổ đi ngủ. Minh Khánh sửng sốt vì không hiểu chuyện gì xảy ra. Còn Minh Dũng, lúc này gã giận đến tím mặt. Nghĩ tới đây Minh Dũng biết kẻ trộm trong nhà là ai rồi. Thế là buổi tối Minh Dũng quyết định họp. Tối hôm đó, ba người vây quanh lấy Mun luận tội. Minh Dũng nói: “Tham ô công quỹ để thỏa mãn dục vọng bản thân, phạt tù mười năm.” Minh Long nói: “Lừa trên gạt dưới, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, phạt tù tám năm.” Minh Khánh thấy mặt Mun dài ra, thương quá nói: “Nếu bị cáo thành khẩn nhận tội thì cho hưởng án treo.” Cuối cùng mọi người quyết định cho Mun lao động công ích để trừ nợ dần. Nhưng cho Mun làm cái gì bây giờ? Ba người suy nghĩ mãi mà chẳng ra. Thế là Minh Long hỏi Mun biết làm những gì. Không cần suy nghĩ Mun nói ngay: “Anh có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa.” Minh Long kinh ngạc lắm, nói: “Thế biểu diễn đi.” Mun vểnh râu hô lên: “Khắc bé.” Thế là Mun bé lại một nửa. Lại hô: “Khắc to, khắc to” Thế là là trở lại bình thường, rồi tiếp tục to lên gấp đôi, bằng con chó ngao mà nhà giàu hay nuôi trông nhà. “Có thế thôi à?” Minh Lon