Một bức thư khác thường. Cứu với! cứư với!’ Giọng kêu the thé, kỳ lạ, đầy lo sợ. Ba Thám tử trẻ. Hannibal Jones, Peter Crentch và Bob Andy không hề chú ý đến, bởi cả 3 quen thuộc với giọng nói ấy: đó là giọng của Râu Ðen, con yểng được nuôi để lấy hên. Y hệt như 1 con két, nó thích lập lại những gì nó được nghe. Bà Mathilda Jones, thím của Hannibal, liếc nhìn g yểng. - Hannibal ơi! Thím gọi. Con không nên cho con yểng của con xem nhiều phim trinh thám ở truyền hình như thế. - Dạ, Hannibal trả lời. Thím Mathilda ơi, cánh của này để ở đâu? - Tất nhiên là để chung với mấy cánh cửa kia. Này, các cậu ơi, cật lực lên đi chứ! Còn nhiều việc lắm, mà thời gian thì qua nhanh lắm. Có tiếng lêu, ông phát thư đến, đặt 1 cọc thư vào thùng thơ. - Chúa ơi! Khi đó thím Mathilda chợi nhớ ra. Hannibal ơi, chú Titus muốn con ra bưu điện gởi 1 bức thư bảo đảm, mà thím quên nói. Thím rút ra từ túi áo 1 bao thư hơi bị nhăn, rồi đưa cho cháu. - Con lấy xe đạp chạy ngay ra bưu điện! – Thím ra lệnh. Tiền đây nè. - Con đi, con chạy, con bay đây, thưa thím Mathilda! – Hannibal mập đáp. Peter và Bob sẽ làm công việc thay chỗ con. Hai bạn ất than phiền là hơi buồn đấy. Peter và Bob phẫn nộ nổi giận. Hannibal leo lên xe đạp rồi biến mất. Bà Jones cười: - Thôi, được rồi, thím thả tự do cho 2 cháu – bà nói. Hai cháu cứ vào cái đống đồ linh tinh mà chơi. Mà thím cũng không biết hai cháu có thể làm gì trong đó. Bằng 1 động tác, bà chỉ đống đồ phế thải che dấu xưởng sửa chữa của Hannibal và không ai biết – bộ tham mưu của nhóm điều tra. - Còn thím – bà Jones nói, thím phải lo thư từ đây. Thím sẽ xem ngay. Có thể có thư cho Hannibal. Hai cậu bỏ ngay công việc, không chờ thím Mathilda nói lần thứ nhì. Bà Jones cầm lấy chồng thư từ. - Không, – bà Jones nói, không có thư cho Hannibal. Bà giả bộ ra đi, nhưng 2 cậu không lầm khi nhìn ánh mắt tinh nghịch của thím: thím Mathilda rất thích đùa. - à! Thím vừa nói vừa đứng lại, cũng có 2 lá thư này gởi Ba Chàng Thám tử trẻ. Chắc là cái Câu lạc bộ mới của tụi bây. Peter cầm lấy hai phong bì, cố kiềm nỗi xúc động, vì đây là lần đầu tiên các cậu nhận được thư. Bà Jones ghé qua phòng làm việc của chồng bà. hai bạn chạy thẳng về bộ tham mưu. - Không được xem thư khi chưa tới chỗ bọn mình, – Peter nói. Công việc là công việc. - Ðồng ý – Bob nói. Từ nay,mình sẽ có thể vào sổ thư từ bọn mình nhận được. Mình đã chuẩn bị sổ rồi, chỉ còn thiếu thư thôi. Hai cậu luồn lách giữa các chồng vật tư khác nhau, và đến được xưởng của Hannibal. Xe lán biến mất dưới một đống đồ đạc linh tinh, nên bên trong luôn luôn tối om. Peter bật điện lên, ngay sau khi đóng cửa sập lại. sau đó 2 cậu lấy ghế ngồi và tiến hành mở thư từ của nhóm. - úi chà! Peter kêu. Bức thư này của bác Alfred Hitchcock. Bọn mình bắt đầu đọc lá thư này đi. Bob rất mừng. Ba bạn đã làm quen với ông Hitchcock 1 cách không bình thường lắm và ông đã hứa báo ngay cho ba bạn biết khi nào ông nghe nói đến 1 vụ bí ẩn thích hợp để 3 bạn trổ tải. Cho nên rất có thể là đúng như vậy. - Trái lại – Bob nói, bọn mình phải để dành cái hay nhất cho phần cuối. Mà mình nghĩ nên chờ Babal về, rồi hẵng mở thư ra. - Sao? – Peter phản đối. Sau cái cách đối xử của cậu ấy à. Cậu đã nghe Ba bal nói lúc nãy chưa, cậu ấy muốn bắt bọn mình làm phần công việc của cậu ấy. Mà chính cậu là lưu trữ gia, chính cậu phải lo về thư từ. Bob thấy lý lẽ có tính thuyết phục và lấy dao rọc giấy mở phông bì thứ hai. Tuy nhiên, vì đã để ý nhiều điều, Bob đề nghị. - Trước khi đọc, bọn mình hãy thử suy luận những gì có thể được. Babal đã dặn bọn mình phải tập suy luận mỗi khi có dịp. - Chưa đọc thư, làm sao mà suy luận được cái gì? – Peter đa nghi hỏi. Nhưng Bob đã cúi xuống xem xét phong bì màu tím, thơm mù hoa đinh. Lá thư cũng màu tím và thơm phức, ngoài ra, có hình hai con mèo trang trí ở phần trên cùng. - Hừm! Bob vừa rên vừa ấn hai ngón tay vào trán để suy nghĩ. Ðược, nghĩ ra rồi. Tác giả của bức thư này là 1 phụ nữ khoảng 50 tuổi. Thấp nhỏ và mập mạp. Nói chuyện nhiều. Nhuộm tóc. Rất thích mèo. Tốt bụng, nhưng đôi khi hơi bất cẩn. Thường hay vui tính, nhưng hiện nay đang gặp rắc rối. Peter mở tròn mắt: - Hả! Cậu đã nhìn thấy tất cả những điều này mà không cần đọc nội dung à? - Dễ ợt – Bob ung dung trả lời. à! mình quên nói thêm là bà rất giàu có và lo làm việc từ thiện. Peter nhíu mày cầm lấy phong bì và bức thư. dần dần nét mặt Peter sáng lên. - Hình vẽ mèo, nên bà này thích mèo – Peter phán. Tem bị dán xiên xẹo và thậm chí hơi bị rách: chứng tỏ tính bất cẩn. Nhìn chung lá thư, hàng chữ viết bắt đầu đi lên phía trên, cho thấy tính khí lạc quan; nhưng về cuối, chữ lại đi xuống nên ta có thể kết luận rằng hiện bà đang bất hạnh … - Ðúng – Bob nói. Không có gì dễ hơn suy luận, khi ta cố gắng áp dụng. - Và khi ta có 1 Babal để cho ta những bài học – Peter nói thêm. Bây giờ mình rất muốn biết cậu lấy đâu ra tuổi tác, vòng eo, cách nói chuyện, tài sản, việc từ thiện và tóc nhuộm của bà ấy. Nghe cậu nói y như Sherlock Holmes. - Cậu xem này – Bob mỉm cười nói. Ðịc chỉ người gởi cho ta biết bà ở Santa Monica, trong 1 khu nhà rất đắt tiền. Mấy bà sống ở khu đó đều rất giàu có và đều lo làm việc từ thiện, bởi vì không có chuyện gì khác để làm. Mẹ mình nói vậy đấy. - Ðồng ý – Peter đáp. Nhưng còn tuổi, tóc và phần còn lại? - Giấy viết thư màu tím và thơm phức, mực viết thì màu xanh lá cây. Thường những phụ nữ có tuổi mới xài những thứ này. Nói thật với cậu, mình có 1 bà dì, thấp nhỏ, nói chuyện nhiều, năm mươi tuổi, nhuộm tóc, khá mập, tử tế dễ thương, dùng loại giấy viết y hệt như vậy. Nên mình mới nghĩ rằng bà … Bob nhìn chữ ký – rằng bà Banfry có thể giống dì Hilda của mình, về bề ngoài cũng như về tính tình. - Giỏi quá! Peter cười và nói. Cậu đoán giỏi y như cậu suy luận. Bây giờ mình hãy đọc xem bà viết gì. Rồi Peter bắt đầu đọc lớn tiếng: ?? ‘ Gửi ba chàng thám tử trẻ. Cô Waggoner, bạn tôi, ở Hollywood, đã kể về cuộc điều tra xuất sắc mà các cậu đã tiến hành để trả cho cô ấy chú két bị thất lạc …’ Rõ ràng, bà Banfry đã nghe nói đến những chiến công của Ba thám tử trẻ trong vụ con két cà lăm. Bob giựt lá thư khỏi tay Peter. - Mình phụ trách lưu trữ – Bob tuyên bố. nên đọc thư là việc của mình, ít nhất là khi Babal vắng mặt. Peter càu nhàu, nhưng nhượng bộ. Bob đọc phần tiếp theo. Mà vụ này rất đơn giản. Bà Banfry có con mèo giống Abyssinie, tên là Sphinx, mà bà rất yêu quý. Từ 1 tuần nay, con mèo đã bị mất tích, và cảnh sát không tìm ra được nó. Các lần thông báo trong báo chí địa phương cũng không có kết quả. Bà Banfry chỉ còn biết cầu cứu ba thám tử trẻ, và ba cậu đã trả lại được con két cưng cho cô Waggoner. - Tốt lắm – Peter nói. Một con mèo mất tích. Ðây có vẻ là 1 vụ án nhỏ hiền lành, hợp lý, không có rủi ro cho bọn mình. Mình sẽ điện thoại ngay cho bà Banfry để báo bà biết là bọn mình đồng ý. - Khoan đã! … Bob trả lời và giữ lại cánh tay của bạn đang đưa về máy điện thoại. Bọn mình chưa đọc thư của bác Hitchcock. - Ðúng, Peter thừa nhận. Bob rọc phong bì ra, rút 1 lá thư viết trên loại giấy sang trọng, có khắc tên Alfred Hitchcock. Sau khi đọc lớn những từ đầu tiên, lưu trữ viên không kiềm chế nổi và im lặng đọc thật nhanh phần còn lại. Khi đọc xong, nét mặt Bob vô cùng ngạc nhiên. - Peter ơi, cậu tự đọc lấy đi. Nếu không, cậu sẽ không tin. Hết sức tò mò, Peter chụp lấy lá thư và đến lượt cậu đọc. Ðọc xong, Peter ngước cặp mắt ngạc nhiên tột độ nhìn Bob. - úi chà! Peter khẽ nói. Làm sao 1 cái xác ướp 3000 năm tuổi lại có thể bắt đầu kể chuyện đời mình? 2. Xác ướp thì thầm Ba thám tử trẻ chưa bao giờ phải lo 1 vụ lạ thường như vụ đang được đề nghị. Giáo sư Robert Yarborough, nhà Ai Cập học lừng danh, sống trong 1 hẻm khu dân cư ngay giữa rừng, cách Rocky khoảng 15km. Nhà ông, 1 ngôi nhà cổ kiểu Tây Ban Nha, đã được chính ông biến thành viện bảo tàng tư nhân. Một hàng cửa – cửa sổ, nhìn ra 1 cái sân lót đan, chiếu sáng căn phòng rộng lớn, nơi giáo sư để các kho báu của mình. Buổi chiều, không khí nóng nực 1cách kỳ lạ … Giữa các cửa sổ, có những bức tượng, từng trang trí các ngôi mộ cổ xưa tại Ai Cập, đứng thẳng. Một trong những bức tượng ấy, tượng thần Anubis – thân người, đầu , chiếu xuống sàn nhà 1 bóng đen hình thù dễ sợ. Trên tường có treo những chiếc mặt nạ có nụ cười bí ẩn và sắc sảo. Tủ kính bảo vệ khỏi bụi cho những tấm bảng viết bằng đất sét, cho nữ trang bằng vàng và những con bọ bằng ngọc bích, được chạm khác bởi những người thợ kim hoàn đã chết từ mấy thế kỷ nay. Dưới đất có cái quách, với hình xác ướp trên phần nổi thấp của nắp. Ðó là 1 cái quách vô cùng giản dị, không có chạm vàng, không có trang trí, nhưng giấu 1 sự bí ẩn mà chưa ai tìm ra câu giải. Nên chủ nhân, giáo sư Yarborough, 1 người đàn ông nhỏ nhắn mập mạp, có râu nhọn và đeo kính gọng vàng, khá tự hào về cái quách này. Thời còn trẻ, giáo sư đã lãnh đạo nhiều chuyến thám hiểm đi đến tận Ai Cập để khai quất tìm kiếm. Ông đã tìm thấy nhiều ngôi mộ đào ngay sườn những ngọn đồi, chứa xác ướp của những vị vua Pharaon, cùng phu nhân và người hầu, chưa kể nữ trang và dụng cụ. Ông cất giữ tại nhà phần lớn những vật tìm ra và đang viết sách về những phát hiện của mình. Giáo sư đã tìm ra cái quách bí ẩn cách đây 25 năm. Nhưng thời đó, do ông quá bận bịu với những cuộc tìm kiếm khác, ông đã cho 1 viện bảo tàng ở Caire mượn quách. Nay, khi đã về hưu, ông có ý định tiếp tục nghiên cứu; nên cách đây mấy ngày, xác ướp và quách đã được chở đến bằng tàu lửa. Bây giờ, ông Yarborough nghĩ, mình sẽ có thời gian khám phá ra bí ẩn của nó … Chiều hôm đó – 2 ngày trước khi Ba thám tử trẻ nhận được thư ông Alfred Hitchcock, giáo sư đang đứng trong viện bảo tàng nhỏ của mình và căng thẳng gõ cây viết chì vào nắp quách. Nắp này có thể tháo ra dễ dàng như nắp của 1 cái thùng bình thường. Wiggins, người đã phục vụ cho giáo sư từ nhiều năm nay, kính cẩn hỏi: - Thưa ông, ông có nghĩ là nên làm lại cuộc thí nghiệm này, sau cuộc xúc động mà ông đã bị ngày hôm qua không ạ? - Tôi kiểm tra xem việc này có lặp lại hay không – giáo sư cương quyết trả lời. Anh mở giúp 1 cái cửa sổ. ở đây ngột bgạt quá. - Vâng, thưa ông – Wiggins vừa nói vừa mở cửa sổ gần nhất. Từ khi bị nhốt lại trong ngôi mộ của 1 vua Pharaon 2 ngày liền, do tai nạn, giáo sư bị chứng sợ chỗ kín. Rồi Wiggins mở nắp lên, và sau khi tháo ra hoàn toàn, cho nắp tựa vào quách. Hai người đàn ông cúi xuống nhìn vào bên trong. Mỗi người 1 sở thích. Có người sẽ không cảm thấy thích thú gì khi ngắm nhìn 1 cái xác ướp, nhưng giáo sư Yarborough thì khác, ông say mê những thi hài ướp bitum và quấn băng vải. Người Ai Cập cổ xưa tin rằng thân thể con người phải được bảo quản hoàn toàn tốt để có thể trình diện thế giới bên kia. Cũng chính để dự phòng cuộc sống sau này, mà họ đặt vào ngôi mộ quần áo, vật trang trí, dụng cụ và nữ trang của kẻ quá cố. Xác ướp của giáo sư Yarborough tên là Ra- Orkon. Kén bọc xác đã được mở ra 1 phần, nên khuôn mặt của Ra- Orkon lộ ra. Ðó là khuôn mặt của 1 người đàn ông lớn tuổi, thông minh, mắt nhắm, môi hơi hé ra như để nói chuyện. Có thể tưởng ông được chạm khắc bằng gỗ mun. - Thưa ông, trông Ra-Orkon hoàn toàn bình tĩnh – Wiggins nhận xét. Tôi không nghĩ hôm nay ông ấy sẽ giở chứng nữa. - Hy vọng là không – giáo sư rầu rĩ đáp. Ông ấy đã chết cách đây 3000 năm. Bây giờ ông ấy lại nói chuyện, thì đúng là phản tự nhiên. - Tất nhiên, thưa ông. - Nhưng hôm qua, lúc ở 1 mình với ông ấy, ông ấy đã nói chuyện với tôi! Tôi không hiểu ông ấy nói tiếng gì, nhưng tôi đã hiểu rõ rằng ông ấy nhờ tôi giúp 1 việc gì đó, rất khẩn cấp. Giáo sư cúi xuống xác ướp: - Ra- Orkon, nếu ông có điều gì cần nói với tôi thì ông hãy nói đi. Tôi nghe đây. Tôi sẽ cố gắng hiểu ông. Một phút trôi qua, rồi 1 phút khác. Không có tiếng động nào trong phòng, ngoại trừ tiếng ruồi bay. Chắc là tôi bị ảo tưởng! Cuối cùng giáo sư thở dài. - Ðó là cách giải thích duy nhất có thể được. Wiggins à, anh làm ơn đi lấy giúp cái cưa tay trong xưởng được không? Tôi sẽ cưa 1 khúc gỗ quách. Như vậy qua thử nghiệm than phóng xạ, anh bạn Jennings ở đại học tổng hợp Californie của tôi sẽ có thể xác định được chính xác tuổi của cái xác ướp này. - Vâng, thưa ông, Wiggins nói, rồi bước ra. Ðúng lúc đó, tiếng thì thầm không rõ vang lên, chắc chắn xuất phát từ cái quách. Giáo sư chưng hửng đứng thẳng người dậy. Rồi ông kê tai lại gần miệng xác ướp. Xác ướp đang thì thầm. Lời nói dường như phát ra từ đôi môi hé mở một nửa, những lời nói được phát âm bởi 1 người Ai Cập đã chết cách đây 3000 năm. Ông Yarborough không hiểu những lời nói này. Chúng được cấu tạo bằng những âm tiết khàn và xuýt, nói bằng 1 giọng gần như không nghe được. Tuy nhiên, những lời nói càng lúc càng gấp gáp hơn, như thê xác ướp hết sức muốn được nói. Nổi xúc động khủng khiếp chiếm lấy giáo sư. Ông nghĩ ngôn ngữ này là tiếng ả Rập cổ xưa. Thỉnh thoảng giáo sư có cảm giác nhận hiểu ra 1 từ. - Nói đi, hãy nói đi, Ra-Orkon! giáo sư kêu. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để hiểu ông. - Xin lỗi, thưa ông! Giáo sư xoay gót quay lại. Lời nói cuối cùng này do Wiggins, tay cầm cưa mới bước vào, phát âm. Ra-orkon đã ngưng nói. - Wiggins ơi! Giáo sư nói. Xác ướp vừa mới thì thầm nữa. Nó đã bắt đầu ngay khi anh mới bước ra ngoài, và nó đã im đi khi anh bước vào. Wiggins nhíu mày, nét mặt nghiêm trang. - Thưa ông, dường như nó chỉ muốn nói chuyện với 1 mình ông thôi. Ông đã hiểu nó nói gì chưa ạ? - Không – ông Yarborough kêu lên. Tôi không phải nhà ngôn ngữ học. Có thể Ra-Orkon không nói bằng tiếng ả Rập cổ, nhưng cũng có thể nói bằng tiếng Hittite hay thậm chí tiếng Chaldie. Wiggins liếc nhìn qua cửa sổ. Trên sườn đối diện của thung lũng có 1 ngôi nhà màu trắng, mới tinh. Anh ta dùng ng1on tay chỉ ngôi nhà. - Giáo sư Freeman là bạn của ông, thưa ông – Wiggins nhận xét. Ngoài ra ông Freeman còn rất am hiểu về tất cả những gì có liên quan đến các phương ngôn vùng Cận Ðông. Chỉ mất 5 phút là ông ấy có thể có mặt ở đây. Và nếu xác ướp chịu nói chuyện với ông ấy, chắc chắn ông ấy sẽ hiểu nó nói gì. - Rất đúng! giáo sư la lên. Ðáng lẽ tôi phải báo cho cậu ấy biết ngay. Dù sao, cha cậu ấy cũng có mặt cùng tôi lúc tôi tìm thấy Ra-Orkon. Nhưng việc phát hiện này không mang lại may mắn cho anh ấy: anh ấy đã bị ám sát 1 tuần sau đó, ngay giữa chợ. Anh đi gọi cho tôi cậu Freeman đi, Wiggins à, và bảo cậu ấy sang đây ngay. - Vâng, thưa ông. Wiggins vừa rời khỏi phòng là tiếng nói thì thầm kỳ lạ tiếp tực trở lại. Giáo sư lại thực hiện 1 nỗ lực mới để hiểu xem xác ướp nói gì, rồi bỏ cuộc. Ông ra đứng ngay ở cửa sổ, nơi nhìn thấy nhà ông giáo sư trẻ tuổi Freeman, xây trên sườn dốc, dưới mức đường xe chạy nhiều. Ông Yarborough nhìn thấy người đàn ông trẻ bước ra khỏi nhà qua cánh cửa hông, leo lên cầu thang ngoài, bước vào ga-ra. Sau đó ít lâu, 1 chiếc xe chạy ra, rẽ vào con đường nhỏ ngoằn ngoèo giữa sườn dốc. Không rời mắt khỏi chiếc xe đang chạy, giáo sứ Yarborough vẫn lắng nghe, hết sức chăm chú, tiếng thì thầm của xác ướp. Bỗng nhiên, Ra-Orkon im lặng. Nỗi lo sợ chiếm lấy ông giáo sư già. Sao! Chẳng lẽ xác ướp lại ngưng nói đúng vào lúc có thể hiểu ra nó nói gì? - Nói tiếp đi, Ra- Orkon, ông hãy nói tiếp đi. Tôi van ông. Chúng ta đang chờ thông dịch viên đến. Ông hãy nói đi!… Một hồi sau, tiếng thì thầm tiếp tục trở lại. Ông Yarborough nghe tiếng xe dừng lại trước cửa nhà. Cánh cửa mở ra. Có người bước vào phòng. - Cậu đó hả Freeman? ông Yarborough hỏi, nhưng không rời mắt khỏi xác ướp. - Dạ phải, cháu đây. Bác bị làm sao thế, hả bác Yarborough? Người kia hỏi. - Cậu đừng làm ồn. Lại đây. Nghe đi. Rồi nói với xác ướp, ông giáo sư già la lên: - Hãy nói đi, Ra- Orkon ơi! Nói đi! Bây giờ có người sẽ hiểu ông. Nhưng xác ướp im lặng. Im lặng y như đã từng im lặng suốt 30 thế kỷ. - Cháu không hiểu, Freeman nói. Có phải bác nói chuyện với xác ướp không ạ? Ông Yarborough quay sang người đồng sự trẻ. Ông Freeman là người vóc dáng trung bình, thon thả, nét mặt vui vẻ. Tóc ông chỉ hơi bắt đầu bạc 1 ít. - Phải, Yarborough nói. Xác ướp vừa mới nói chuyện với tôi bằng 1 thứ tiếng mà tôi không hiểu được, và tôi hy vọng cậu sẽ thông dịch cho tôi. nhưng ngay khi thấy cậu, nó … Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của ông Freeman, giáo sư Yarborough không nói nữa. - Cậu không tin tôi, phải không? Cậu không tin rằng Ra- Orkon có thể nói chuyện với tôi à? Freeman gãi cằm. - Bác hãy thừa nhận rằng đó cũng là chuyện lạ – cuối cùng ông nói. Cháu sẽ dễ tin hơn nếu chính cháu nghe thấy … - Ta hãy làm thử – ông Yarborough nói. Ra-Orkon, ông nói đi, chúng tôi nghe đây. Chúng tôi sẽ cố gắng hiểu ông. Hai người đàn ông chờ đợi. Xác ướp không phản ứng. - Không chờ nữa – ông Yarborough thở dài. Ra-Orkon chỉ chịu nói chuyện riêng với tôi thôi. vậy mà tôi cứ hy vọng cậu sẽ dịch cho tôi nghe những gì ông ấy nói. Giáo sư cố gắng ra vẻ tin tưởngm nhưng không thành công lắm. - Nếu có thể được, cháu sẳn lòng giúp bác – ông lễ phép trả lời. Ô kìa! bác định làm gì với cái cưa này? Không lẽ bác tính mổ tử thi Ra-Orkon? - Không, không. Tôi chỉ muốn cưa 1 mẫu gỗ để đưa thí nghiệm than hoạt tính và như vậy xác định ngày chính xác khi Ra- Orkon được chôn cất. - Làm hỏng 1 cái quách cổ xưa như thế này thì uổng quá. - Không đâu- ông Yarborough đáp. Cái quách này không có gì là quí báu hết, và dù sao tôi cũng phải biết được nó có từ năm nào chứ. Nhưng mỗi việc 1 lúc. Trước khi tìm ra bí mật của Ra-Orkon, tôi muốn làm rõ cái chuyện thì thầm này. Nhưng, cậu Freeman ơi, 1 cái xác ướp đâu thể nói chuyện được! Mà xác ướp này thì lại nói. Và chỉ nói với 1 mình tôi mà thôi. - Hừm! Freeman vừa kêu vừa cố giấu đi nỗi thương hại đối với người đàn ông già. – Hay bác giao cho cháu cái tên già hay đùa này trong vài ngày? Khi về tới nhà cháu, có thể nó cũng sẽ chịu nói chuyện với cháu. Nếu cháu hiểu được nó kể lễ điều gì, cháu sẽ truyền đạt lại chính xác cho bác bức thông điệp của nó. Giáo sư Yarborough nhìn trừng người đàn ông trẻ. - Cậu thật là tốt bụng, cậu Freeman à- ông trịnh trọng nói. Cậu đang nghĩ tôi bị ảo tưởng, và để tránh làm cho tôi buồn, cậu không thành thật nói ra. Thì, cũng có thể cậu đúng. Ra-Orkon sẽ ở lại đây cho đến khi tôi tin chắc về sự việc này. - Tuỳ bác thôi – Freeman nói. Nếu anh bạn của ta lại nói nữa, bác cứ báo cho cháu biết. Cháu sẽ đến cấp tốc. Tạm thời cháu xin phép bác. Cháu có tiết giảng ở trường đại học tổng hợp. Ông Freeman ra khỏi căn phòng. Ông giáo sư Yarborough hoài công chờ xác ướp nói chuyện trở lại. Wiggins xuất hiện. - Tôi dọn bữa ăn tối cho ông được chưa ạ? - Dọn đi, Wiggins. Anh có nhớ là anh không được nói cho ai biềt về cụ này không? - Dạ nhớ, thưa ông. - Tôi đã nhìn thấy rõ phản ứng của cậu Freeman. Tất cả các đồng sự của tôi cũng sẽ phản ứng như vậy thôi. Nếu họ biết rằng 1 xác ướp kể chuyện cho tôi, họ sẽ nghĩ tôi lẫm cẩm. Anh thử tưởng tượng nếu báo chí nắm được chuyện này: uy tín nhà bác học của tôi sẽ tiêu tan. - Tất nhiên, thưa ông. - Tuy nhiên tôi phải xin ý kiến của 1 người nào đó. Một người nào đó không phải là nhà bác học, và biết rằng thế giới này đầy rẫy bí ẩn … ồ! tôi biết người nào rồi. Tôi sẽ gọi điện cho anh bạn Alfred Hitchcock của tôi. ít nhất anh bạn này sẽ không cười tôi. Giáo sư Yarboruogh nghĩ đúng. Alfred Hitchcock không cười ông. Như ta đã biết ở chương trước, ông chỉ báo tin cho Ba Thám Tử Trẻ