n. Ngẩn ra một lúc, chúng tôi mới nhìn thấy rõ quanh thành động cũng chi chít những đốm xanh lè, đó là hàng ngàn hàng vạn con dơi. Chúng tôi vội vàng ôm lấy đầu nằm rạp xuống. Lúc này đàn dơi bị kinh động, kêu ré lên nháo nhác bay ra ngoài, đuốc đều bị chúng tạt cho tắt hết. Dơi trong động Hoàng Sào đều màu trắng, to bằng lòng bàn tay, số lượng nhiều không kể xiết, chúng tôi nhắm mắt ôm đầu nằm im, một lúc sau, lũ dơi mới bay hết ra ngoài. Tôi và Mặt dày lôi Điếu bát dậy, thắp đuốc lên, trong này là một hang động mọc đầy măng đá, cứ như đứng giữa một rừng măng, trong lòng động có nước, sâu khoảng một thước, nước trong nhìn thấu đáy, rất nhiều con cá mình trong suốt đang bơi lội. Tôi nghĩ truyền thuyết cá khóc trong động chắc là bắt nguồn từ tiếng kêu của lũ dơi, may mà bọn này không tấn công người. Mặt dày nói: “Mấy ngày trên núi, mồm miệng nhạt quá rồi, hay là bắt vài con cá ăn tạm, còn tiết kiệm được lương khô nữa.” Điếu bát nói: “Dân trong vùng còn không dám ăn cá ở đây, vì dưới hồ có cương thi, bọn cá này đều ăn thịt người đấy.” Mặt dày nói: “Toàn mấy lời đồn mê tín của dân bản địa, có bao nhiêu cương thi cho bọn cá này ăn bao nhiêu năm như vậy chứ.” Tôi nói: “Bọn cá dưới hồ Tiên Đôn có ăn xác người chết hay không thì không biết, nhưng bọn cá trong động này rõ ràng là không được tiếp xúc với ánh mặt trời, nếu không đã không trở nên trong suốt thế kia, chỗ này lại chẳng có thứ gì khác mà ăn, chắc là chỉ ăn xác chết và phân dơi thôi. Ông mà muốn ăn cá thì cứ xơi tự nhiên, bọn tôi chẳng dám hưởng phúc đó đâu.” Mặt dày nghe đã thấy buồn nôn, ngay lập tức từ bỏ ý định ăn cá, lại lý luận: “Hai người đừng tưởng thật, tôi cũng chỉ nói thế thôi, tiết kiệm là đương nhiên nhưng không nhất thiết phải mạo hiểm tính mạng.” Động Hoàng Sào là một dòng sông chảy ngầm trong lòng đất thông ra tới hồ, dài mấy cây số, nối thông với rất nhiều lòng động to nhỏ khác nhau, trong đó vài nơi vẫn còn nước, nhiều lúc tới những vị trí tương đối cao còn nhìn thấy những bức họa vẽ hình thiên cẩu ăn mặt trăng, nội dung không còn nguyên vẹn, hình thù kỳ dị, thậm chí còn có phần khủng khiếp chúng tôi, đứng trong lòng động hàng vạn năm, âm u lạnh lẽo này mà không dám tiến lên. CHƯƠNG 13 – CHUYỆN MA TRONG NÚI 1 Bức bích họa thiên cẩu ăn mặt trăng vẽ hình xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn, người chết thủng ruột trong chiếc quan tài bằng ngọc. Với ngôi mộ trên núi đó, tôi cũng chỉ biết có vậy. Nếu vào được trong hầm mộ, tôi tin sẽ còn nhiều phát hiện kinh người nữa. Chúng tôi đi qua loạt động trong Thảo Hài Lĩnh một cách thuận lợi, khắp nơi đều có hang động, mỗi động một vẻ, nhưng trong con mắt giới đổ đấu chuyên nghiệp, thì cho dù các hang động có hình thù cổ quái tới đâu cũng không nằm ngoài mười tám loại hình hang động đã được tổng kết, phong thủy gọi là “sơn trung thập bát khổng” mỗi loại có một cách đi riêng, tôi từng nghe lão Nghĩa mù giới thiệu, trong cuốn “Âm Dương bảo kíp” của nhị lão đạo cũng có nói tới. Muốn ra khỏi động Hoàng Sào không phải là khó. Quá trưa, chúng tôi tới phía nam Thảo Hài Lĩnh, ba phía đều là những ngọn núi cao vút, cho dù có chắp thêm cánh cũng không bay qua được, diện tích hồ rộng 370 hecta nằm giữa các dãy núi, ven hồ mọc đầy lau sậy, phía xa là màu sương mù, trắng đục. Năm xưa, mực nước hồ Tiên Đôn cao hơn bây giờ rất nhiều, nước trong hồ thông thẳng vào động Ngư Khốc, cá trong động chưa hẳn là cá thần, những truyền thuyết như vậy vốn không có căn cứ. Người xưa vốn nhàn hạ, sau bữa tối thì rảnh rang không có việc gì làm, ngoài chuyện sinh con ra thì chuyên nghĩ ngợi linh tinh rồi kể chuyện, bốn tác phẩm văn học lớn của Trung Quốc cũng được ra đời như vậy mà thôi. Nhưng núi Hùng Nhĩ là một bảo huyệt trong dãy núi long mạch của Trung Nguyên, những chỗ nước rút giờ đã thành đầm lầy, là nơi cư trú của vịt trời và chim nhạn. Điếu bát che tay ngang trán nhìn ra xa: “Mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn chắc chắn ở bên kia, tôi đã nhìn thấy bảo khí toát lên từ địa cung.” Tôi nói: “Anh đừng vội nhắc đến điều đó, chúng ta đã bỏ qua một tình tiết hết sức quan trọng, làm thế nào để ra hồ đây?” Điếu bát và Mặt dày nghe tôi hỏi thì ngẩn người, chẳng ai nghĩ tới việc quanh Tiên Đôn tứ bề đều là nước, không có ghe thuyền thì không thể qua hồ, bơi thẳng ra thì cũng không được phần vì hồ rộng, phần còn phải mang vác xẻng, dây thừng, lương khô, đèn pin, túi ngủ v.v… trọng lượng chiếc ba lô không phải là nhẹ, xuống nước chắc chắn sẽ chìm xuống đáy hồ luôn. Hai nữa, nghe nói dưới đáy hồ có cương thi, đó là những xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, chúng tôi to gan đến mấy cũng không dám lội thẳng xuống nước. Ba người bàn bạc một hồi, quyết định xuống hồ từ phía núi Thương Mã, tới đầm Canh gà trước. Nghe nói, người dân vẫn hay vào trong đầm nhặt trứng vịt trời, có thể ở đó sẽ có thuyền bè để lại. Chúng tôi không mang nhiều lương khô, dọc đường lại bị chậm một ngày, như vậy thời gian đào mộ cũng bị giảm bớt đi một ngày. Sau khi lên kế hoạch, chúng tôi tìm đường xuống núi. Nếu là mực nước năm xưa của hồ Tiên Đôn thì quả không có đường xuống thật, nhưng nay nước đã rút, phần tiếp giáp với núi Thông Mã hình thành một khu đầm lầy rộng khoảng hơn trăm mét mọc đầy lau sậy. Chúng tôi đi xuyên qua khu đầm lầy tiến về phía Nam, trước khi mặt trời lặn thì tới được đầm Canh gà. Vùng này lau sậy mọc dày đặc, mặt nước lung linh trong ánh chiều, tiếng chim nhạn kêu giữa bầu không, từng làn gió thu nhè nhẹ thổi, những bông lau bay trong gió tựa hồ tuyết rơi, cảnh vật đẹp như tranh vẽ. Nhưng trước khi tới đây chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện về cương thi hồ Tiên Đôn nên chỉ thấy phía dưới mặt hồ tĩnh lặng kia đang ẩn chứa nhiều bí ẩn. Đầm Canh gà chỉ có một lối đi duy nhất chưa thể gọi là đường, hai bên toàn là đầm trạch, vận may của chúng tôi không đến nỗi tồi, theo con đường đó, chúng tôi tìm thấy ba chiếc thuyền độc mộc, trong đó hai chiếc đã hỏng nặng, chiếc còn lại tương đối tốt. Thuyền độc mộc là loại thuyền được đẽo từ một thân cây nguyên vẹn, có thể chở được vài ba người, dùng mái chèo để di chuyển trên nước. Điếu bát nhìn hoàng hôn dần tàn, liền nói: “Đêm nay đành nghỉ lại trong đầm lau sậy này, sáng mai đào mộ dưới hồ sau vậy.” Chúng tôi cũng không đi nổi nữa, liền tìm chỗ khô ráo ngồi lại giở lương khô ra ăn cho đỡ đói. Mặt dày luôn miệng chê lương khô cứng, ăn gãy cả răng, anh ta nói: “Món ăn hoang dã ngon nhất vẫn là sóc đất. Hai năm trước, khi tôi còn đóng quân ở Tây Bắc, thường chạy xe đường dài, cũng thường xuyên không có cái ăn. Nếu bắt được một con sóc đất thì coi như được đổi bữa. Bọn sóc đất này con nào con nấy béo tròn, nướng trên lửa mỡ cứ chảy ra xèo xèo.” Điếu bát dường như cũng được ăn thịt sóc đất rồi: “Ừ… thịt nó giống thịt cầy vòi mốc, nhưng ăn thịt sóc đất phải chú ý thời gian, nếu ăn sau tiết Kinh Trập[1'> nách nó sẽ bị hôi, không thể ăn được.” [1'> Tiết kinh trập: là khoảng thời gian bắt đầu từ 5/3 đến 21/3 trước khi tiết xuân phân bắt đầu. Tôi nói: “Sao thứ gì mấy người cũng ăn vậy? Bọn sóc đất chân tay giống như người, nướng chín rồi trông chẳng khác gì thịt người nướng. Hơn nữa sóc đất rất cảnh giác, hang của chúng thường có nhiều cửa, không dễ bắt đâu.” Mặt dày nói: “Nghe là biết chú không phải dân sành ăn rồi. Sóc đất chuyên ăn rễ cây, những vùng bị chúng cắn hết rễ cây thì không có bóng dáng cây cỏ nào, mình ăn thịt chúng chính là trừ hại cho nhà nông. Hơn nữa hang sóc đất thường có hai cửa hang, chỉ cần hun khói một đầu cửa hang, cầm sẵn gậy đứng chờ ở đầu cửa hang bên kia chờ bắt là xong, nếu có chó thì càng đơn giản hơn, không cần mình phải ra tay. Lần sau có cơ hội đi Tây Bắc tôi mời hai người ăn thịt sóc đất, hôm nay đành gặm tạm lương khô vậy. À, mà sao tụi mình không bắt vài con vịt trời nếm thử nhỉ?” Tôi và Điếu bát nghe anh ta nói vậy thấy đây cũng là một ý hay, đúng là nên đi thám thính xem. Cả bọn cất lại mấy miếng bánh cứng còng, rón rén trong đám lau sậy tìm khắp nơi, nhưng đến một cọng lông vịt cũng không có. Bỗng thấy đám lau sậy phía trước sột soạt lay động, dường như có vật gì đó đang động đậy, tôi rón rén tiến lên phía trước, nhẹ nhàng rẽ đám sậy trước mặt, bỗng giật thót mình, suýt chút nữa bật kêu lên thành tiếng. 2 Tôi vội lấy tay bịt miệng, cúi thấp người, không dám thở mạnh, vội đưa tay ra hiệu cho Điếu bát và Mặt dày cũng nằm xuống. Hóa ra, sau đám lau sậy là một toán người khoảng hơn chục tên, đứa dẫn đầu thấp, béo tròn, khoảng ngoại tứ tuần, đầu hắn to hơn hẳn người bình thường, miệng rộng, mắt cười híp mí, lúc nào cũng thường trực nụ cười giả tạo, trông bề ngoài, hắn không khác gì bức tượng phật Di Lặc trong chùa. Tôi và Điếu bát đều biết tên này, hắn là Hoàng Tam, mọi người đều gọi hắn là Hoàng phật gia, một tay anh chị ở chợ âm phủ. Thời trẻ bán cháo quẩy, mấy năm gần đây phát tài nhờ đi đào trộm mộ. Nghe phong thanh, Hoàng phật gia chẳng có tài cán gì, nhưng thủ đoạn rất nham hiểm, lại thêm bọn đầu gấu bám theo hắn làm ăn, chỉ cần làm giàu không cần biết đến lý lẽ. Trước đây, hắn cũng hay tới tìm lão Nghĩa mù nhờ chỉ giúp nơi nào có mộ cổ, nhưng lão Nghĩa mù đều từ chối không gặp, nhiều lần như vậy, về sau hắn cũng ít tới hơn. Tôi gần như chẳng bao giờ qua lại với hắn. Tôi không ngờ lại gặp phải Hoàng phật gia ở đây. Hai người kia theo sát phía sau tôi, biết tình hình cũng vô cùng kinh ngạc, không ai dám lên tiếng. Thuộc hạ của Hoàng phật gia đứa nào trong tay cũng có súng trường hoặc súng lục, một số thằng còn đeo những ba lô chứa đầy thuốc nổ. Người dân địa phương ở đây có truyền thống săn nhạn và vịt trời, chỉ cần có tiền muốn mua bao nhiêu súng săn mà chẳng được, số thuốc nổ kia chắc cũng mua từ những mỏ khai thác than lậu, bọn này to gan thật. Tôi nghĩ bụng: “Nghe nói bọn Hoàng phật gia là một đội quân đào mộ được trang bị vũ trang, quả nhiên không sai. Bọn này định dùng thuốc nổ để đi đào mộ trên núi Hùng Nhĩ chắc?” Bỗng nghe một tên có eo gầy như eo rắn trong đám thuộc hạ lên tiếng: “Có bản đồ mộ cổ rồi còn cần người địa phương dẫn đường nữa sao?” Một tên khác có vết sẹo trên mặt trả lời: “Bọn mình làm gì có bản đồ? Trên hồ sương mù có thể nổi lên bất cứ lúc nào, nếu không có người bản địa dẫn đường thì không ổn.” Tên eo rắn cười hí hí nói: “Mày không biết đấy thôi, có một thằng ngu tên là Điếu bát đi rêu rao khắp nơi tìm người để lấy tấm bản đồ trong chiếc gối sứ trăm tuổi, nó vừa muốn lấy tấm bản đồ lại vừa không muốn làm hỏng chiếc gối sứ, cứ tưởng chuyện ngon đều về hết tay hắn. Chuyện này Hoàng phật gia cũng biết rồi, muốn lừa thằng ngu đó khác gì trò đùa, phật gia dặn tao lúc lấy tấm bản đồ ra thì sao lại một bản, thằng ngu Điếu bát kia có nằm mơ cũng không nghĩ tới chiêu này.” Tên mặt sẹo giơ ngón tay trỏ lên, ngay lập tức ra giọng nịnh bợ Hoàng phật gia: “Cao tay thật! Em phục đại ca sát đất.” Hoàng phật gia hừ một tiếng, nói: “Thằng ngu Điếu bát đó cũng không tự hỏi xem mình là ai, một thằng ngu như nó mà đòi đi đào mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ?” Tôi và Mặt dày nghe thì biết ngay sự tình, chỉ thấy Điếu bát sắc mặt lúc xanh lúc trắng, vừa xấu hổ vừa tức giận, chỉ muốn chui đầu xuống đất, trong lòng đã chửi tổ tông tám đời nhà Hoàng phật gia rồi nhưng không dám lên tiếng. Anh ta biết rõ gặp phải bọn này thì không có kết quả tốt. Trời đã tối hẳn, chúng tôi trốn trong đám lau sậy không dám lên tiếng, chỉ nghe thấy Hoàng phật gia nói: “Trong tay chúng ta là tấm bản đồ từ cuối đời Minh, cũng không biết bây giờ đã thay đổi như thế nào, giờ cứ tạm giữ hai người này dẫn đường.” Lúc này, chúng tôi mới nghe thấy giọng nói rất quen thuộc cất lên: “Các ông thả tôi ra đi, nhà tôi ở tận Lão Giới Lĩnh, tôi chưa tới hồ Tiên Đôn lần nào, xa nhất cũng chỉ mới tới đầm Canh gà này thôi. Hôm nay, cô gái này nhờ tôi đưa tới đây vẽ phong cảnh, các ông làm phúc thả tôi về đi, nhà tôi còn có người già trẻ nhỏ…” Tôi rướn người về phía có tiếng nói, hóa ra là Lư mặt rỗ, còn có cả cô gái gặp trên tàu, theo lời Lư mặt rỗ nói thì cô gái này thích vẽ tranh, nghe tôi và Lư mặt rỗ kể về hồ Tiên Đôn nên đã xuống tàu nhờ Lư mặt rỗ dẫn đường tới đây, không ngờ gặp ngay bọn Hoàng phật gia. Hoàng phật gia cười nhạt: “Mày tên là Lư mặt rỗ? Cái tên đúng là rất hợp với bộ mặt của mày. Sao không nói sớm là mày chưa lên núi lần nào?”. Nói rồi, hắn bất chợt cầm lấy xẻng quất luôn một cái vào giữa mặt Lư mặt rỗ, Lư mặt rỗ kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn ra đất, máu mồm máu mũi chảy đầy mặt, cơ thể không ngừng co giật, không còn kêu lên được tiếng nào nữa. Hoàng phật gia bồi thêm vài cái vào đầu Lư mặt rỗ, giết người xong mặt hắn không hề biến sắc, nói với bọn tay chân: “Đã nói với chúng mày tìm người địa phương dẫn đường, chúng mày lại tìm một thằng ngu thế này à? Mau đào hố chôn nó đi cho tao.” Bọn tay chân không dám nói lại một câu, cun cút đi tìm chỗ đất mềm đào huyệt. Tên eo rắn hỏi: “Phật gia, còn con bé kia, xử lý thế nào?” Hoàng phật gia nghĩ: “Người trên giang hồ đều mê tín, tài sắc không thể có cả hai, không thể để lỡ việc vì bọn đàn bà, đợi đào mộ cổ xong, lấy được đồ tùy táng, muốn chơi loại gái nào mà chẳng được.” Tên eo rắn mắt lim dim: “Con bé này đẹp như một đóa hoa, chôn đi thì cũng tiếc, tôi chẳng nỡ xuống tay, nhưng nghe lời Phật gia cấm có sai, việc của chúng ta đã bị nó nhìn thấy hết rồi, giữ lại chỉ là mầm họa…” Vẫn được nghe Hoàng phật gia tâm địa độc ác, làm việc gì cũng không để lại hậu họa, nhưng chẳng ai ngờ hắn nói giết người là giết người, ra tay vừa nhanh vừa tàn nhẫn, mặt không chút biến sắc. Nếu không phải là chúng tôi nấp bên cạnh quan sát thì chỉ có trời mới biết trong đám lau sậy này đã xảy ra chuyện gì. Chúng tôi có lòng muốn cứu Lư mặt rỗ cũng chẳng kịp ra tay. Nghe bọn này còn bàn nhau chôn sống cô gái kia, tôi thấy máu nóng bốc rần rần lên mặt, đưa tay huých khẽ vào Mặt dày nháy mắt ra hiệu, hắn ta hiểu ngay ý tôi. Chúng tôi mỗi đứa nắm một vốc đất, bất thình lình ném về phía bọn kia, bọn chúng không chút cảnh giác bị cát bụi bay vào mắt, những thằng còn lại chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi nhặt chiếc xẻng trên mặt đất phang một nhát vào đầu Hoàng phật gia, máu chảy be bét, hắn ôm đầu ôm mặt kêu thảm thiết. Mặt dày thì nhắm chuẩn vào tên eo rắn đạp một phát chí mạng, tên eo rắn lập tức miệng phun ra máu, đổ rạp xuống đất không đứng dậy được. Nhân lúc hỗn loạn, chúng tôi kéo cô gái đứng lên bỏ chạy, đồng thời ra hiệu cho Điếu bát mau chóng rút lui. Tôi vừa chạy vừa nói với Điếu bát: “Tôi báo thù cho anh rồi nhá. Nhát xẻng đó không đánh chết được tên Hoàng phật gia coi như nó mạng lớn.” Điếu bát giờ mới hiểu ra sự tình, nhưng cổ họng cứng lại, chỉ nói được một câu: “Quá đẹp!” 3 Lúc này nghe thấy sau lưng bọn Hoàng phật gia đang la ó đuổi theo, bốn người không dám dừng lại, chạy như bay trong đầm lau sậy dưới ánh trăng, chẳng quan tâm quần áo bị cào rách, tay chân xây xát, cho tới khi đến chỗ chiếc thuyền độc mộc. Đầm Canh gà chỉ có một con đường, đành phải đẩy thuyền xuống nước, tôi nhớ ra súng đã bị rơi trong đám lau sậy nhưng không còn cách nào quay lại lấy nữa, chúng tôi ra sức dùng xẻng và mái chèo để chèo thuyền ra phía ngoài hồ. Hoàng phật gia mới tới đầm Canh gà, chưa có thuyền lại không thông thạo đường hướng nên không đuổi kịp chúng tôi, chúng tôi chèo được mấy trăm mét, lại có sương mù che phủ, tự thấy tạm thời không nguy hiểm nữa, liền giảm bớt tốc độ, theo phương hướng trên la bàn thì chúng tôi đang chèo về phía bắc, cả mặt hồ rộng mênh mông, sương mù bao phủ, muốn tìm một mô đất nghe chừng rất khó. Điếu bát thấy mặt cô gái trắng bệch, biết là cô sợ, liền nói: “Em gái, không sao rồi, gặp bọn anh coi như gặp người nhà, tên Hoàng phật gia đó ác thế nào thì cũng bị người anh em đây cho xơi một xẻng vào đầu, chứ chưa cần anh ra tay, anh mà ra tay thì trên giang hồ từ đây về sau không còn người tên là Hoàng phật gia nữa đâu. Em đừng thấy anh mảnh khảnh mà coi thường, quả cân tuy nhỏ nhưng có thể giữ được ngàn cân đấy, trình độ là ở chỗ đó. À, mà em tên gì nhỉ?” Cô gái có đôi mắt to tròn sáng như sao, trên mặt vẫn còn ngấn nước mắt, nhẹ giọng nói: “Em họ Điền, tên Mộ Thanh”. Điếu bát nói: “Em gọi anh là anh Điếu đi, hai người kia là Bì Chiến Đấu[2'> và Bạch Thắng Lợi[3'>. Làm sao mà em gặp phải tên Hoàng phật gia kia thế?” [2'> Bì Chiến Đấu: Chỉ Mặt dày. [3'> Bạch Thắng Lợi: Chỉ nhân vật tôi. Điền Mộ Thanh kể ngắn gọn đầu đuôi câu chuyện, cũng giống như tôi phỏng đoán. Cô là giảng viên Học viện Mỹ thuật, gặp Lư mặt rỗ ở trên tàu, nghe anh ta kể về Tiên Đôn nên muốn tới xem. Sau khi xuống xe cùng Lư mặt rỗ hỏi đường tới bên hồ chụp vài kiểu ảnh về làm tài liệu giảng dạy, Lư mặt rỗ cũng muốn kiếm thêm chút tiền nên nhanh chóng nhận lời dẫn đường cho cô. Do anh ta phải về nhà sắp xếp công việc nên tận hôm nay mới tới, nếu không thì cũng chẳng gặp bọn Hoàng phật gia kia. Điền Mộ Thanh kể tới đoạn cô đã liên lụy tới Lư mặt rỗ làm anh ta phải chết thì lại đau lòng. Tôi nói: “Cũng không trách cô được, nếu không phải trên tàu tôi hỏi chuyện Lư mặt rỗ về hồ Tiên Đôn thì cô đã không nghe thấy và cũng không nhờ anh ta dẫn đường tới đây.” Điếu bát nói: “Nói cho cùng thì cũng là cái số. Thằng ngu Hoàng phật gia đúng là chán sống rồi, nói giết người là giết người, con mẹ nó, đây là thời đại nào vậy?” Anh ta vừa nãy bị bọn Hoàng phật gia liên tục gọi là thằng ngốc, trong lòng khó chịu nên bây giờ mở miệng ra là chửi lại bọn nó. Mặt dày không biết Hoàng phật gia, liền hỏi thằng đó lai lịch thế nào mà không coi mạng người ra gì, không lẽ là thổ phỉ ở Dự Tây? Tôi giải thích: “Hoàng phật gia xuất thân từ một thằng bán rong, tổ tông tám đời nhà nó đều bán quẩy, đến đời nó cũng vậy. Năm nọ, hắn dùng dao đâm chết người bị bắt đi cải tạo lao động tại Tây Bắc. Tại đó, hắn quen một phạm nhân có biệt hiệu là Thành câm. Nghe nói thằng đó bị câm nhưng rất giỏi về thuốc nổ, sau khi được phóng thích, hai đứa nó đã tụ tập một lũ đầu gấu cần tiền không cần mạng, chuyên làm mấy chuyện đào trộm mộ cướp bảo vật…” Mới kể tới đó thì sương mù xuống càng dày hơn, ánh sáng mặt trăng không soi tới mặt nước, mặt hồ tĩnh lặng kỳ lạ, thi thoảng nghe thấy xung quanh có tiếng cá búng nước. Mặt dày lôi đèn pin ra soi, tứ bề đều là sương mù, không có la bàn thì chẳng biết đông tây nam bắc ở đâu. Chắc do ba ngọn núi Thảo Hài, Thông Mã và Kê Lung như ba bức bình phong đã chặn hơi nước khiến sương mù trên mặt hồ tan rất chậm. Tôi nói với Điếu bát: “Muốn sương trên hồ tan thì phải có trận mưa…” vừa nói tới đó thì nghe phía sau có tiếng người, lắng tai nghe hóa ra là bọn Hoàng phật gia, không ngờ bọn này tìm được thuyền nhanh thế. Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: “Bọn Hoàng phật gia có bao nhiêu người?” Điền Mộ Thanh nói: “Tính cả hắn là mười bảy người.” Mặt dày nói: “Súng thì bị rơi ở trong đám lau sậy rồi, tay không mà để bọn kia đuổi kịp thì có khác gì làm bia sống cho bọn nó bắn.” Tôi nói: “May mà có sương mù, ngoài phạm vi mười mét không nhìn thấy gì đâu, chúng ta chỉ chèo thuyền thôi, không lên tiếng nữa, chèo tách xa bọn Hoàng phật gia càng xa càng tốt.” Điếu bát nói: “Đúng… đúng thế, trứng không chọi với đá được!” Điền Mộ Thanh cũng giúp một tay, bốn người không ai lên tiếng, cắm cúi dùng xẻng và mái chèo chèo thuyền, ai mệt rồi thì người khác thay, nhưng mãi vẫn không cắt đuôi được bọn Hoàng phật gia, thời gian từng tiếng từng tiếng trôi qua, không rõ chúng tôi đã chèo trong sương mù bao lâu, bỗng thuyền chúng tôi đâm phải một mô đất, không ngờ sương dày như vậy mà chúng tôi vẫn tìm thấy mô đất, xem ra vận may của chúng tôi đã đến, mèo mù vẫn đớp được cá rán. 4 Những truyền thuyết về mộ cổ ở hồ Tiên Đôn thì rất nhiều, có người nói đó là một ngôi mộ cổ, có người thì nói chỉ là một nấm mô, lại có người nói đó là một lăng tẩm. Cũng là nơi chôn người chết nhưng lại có sự khác biệt, nếu là nơi chôn các bậc đế vương thì được gọi là lăng tẩm, vương gia thì gọi là mộ, dân thường chỉ gọi là phần. Chỉ biết mộ trên núi Hùng Nhĩ là một huyệt mộ, nấm mộ chất cao như núi, nghe nói đường hầm trong đó ngang dọc rất nhiều, hầm mộ rất to, nhưng không biết là chôn ai, vì vậy mới có người nói là lăng tẩm có người nói là mộ. Ngôi mộ này vốn nằm trong một ngọn núi, do hàng nghìn năm trước địa chất thay đổi nên bị lún xuống rất nghiêm trọng, ngôi mộ bị chìm trong nước. Mỗi năm hạn hán lại nhô lên khỏi mặt nước được một ít. Dân gian gọi là Tiên Đôn và gọi hồ n