thấy ai xuất hiện. Chau mày, bứt rứt nhà thám tử quay lại, mở ngăn đựng bao tay, lấy ra một phong bì nhỏ màu nâu và một con dao nhíp bỏ túi. Mở một lưỡi dao nhỏ nhất ra, ông chận ngón tay cái phía trong lòng phong bì, rồi như một bác sĩ phẫu thuật, ông nạo lớp sơn trên bức tượng do Regan tạc từ dưới móng ngón tay cái ra. Lúc đã nạo xong và niêm phong bì lại rồi, ông gật đầu về phía viên trung sĩ điều tra ngồi sau tay lái. Họ vù đi. Lúc họ lái xuống phố Prospect, Kingderman bỏ chiếc phong bì vào túi. “Cứ thong thả”, ông lưu ý người trung sĩ vừa nhìn cảnh xe cộ lưu thông đùn đống ở trước mặt. “Đây là công việc chứ không phải đi chơi”. Ông dụi mắt bằng mấy ngón tay mệt mỏi. “Ôi, thật chán cho đời”, ông thở dài. “Thật chán cho đời”. * * * * * Tối hôm ấy, trong khi bác sĩ Klein đang chích cho Regan năm mươi miligam Sparine để bảo đảm cho cô bé được an ổn trong chuyến hành trình đi Dayton, thì trung úy Kingderman đứng trầm ngâm trong văn phòng, hai bàn tay úp thẳng trên mặt bàn lúc ông nhìn chăm chú mớ dữ kiện còn manh mún, rời rạc chỉ làm rối trí ông. Luồng sáng hẹp của một ngọn đèn bàn cũ kỹ lóe trên một mớ hỗn độn các báo cáo phúc trình. Không cò một nguồn sáng nào khác. Ông tin rằng như thế dễ giúp ông thu hẹp được điểm tập trung. Kinderman thở rất khó khăn nặng nhọc trong bóng tối lúc tia nhìn của ông cứ di chuyển khi chỗ này, lúc chỗ khác. Sau đó ông hít một hơi thở rõ sâu và nhắm mắt lại. Bán xôn trí tuệ đây. Mại dô! Ông tự nhủ mình, giống như cách ông hay làm cứ khi nào ông muốn sắp xếp lại đầu óc để đón nhận một quan điểm mới. Dứt khoát là Mọi Thứ Phải Đi Bằng Hết! Lúc mở mắt ra, ông đọc kỹ bảng báo cáo của chuyên viên nghiên cứu bệnh lý về trường họp Dennings: “… rách cột sống cộng với sọ và cổ bị gãy, thêm vào đó nhiều vết đập, vết rách và trầy da, bị căng da cổ, bầm tím vùng da cổ, bị lột cơ bám da, cơ ức chũm, cơ gối, cơ hình thang và nhiều cơ nhỏ khác ở cổ, gãy xương sống và đốt xương sống, bị lột các dây chằng phía trước và phía sau cột sống…” Qua cửa sổ, ông nhìn vào vùng đen tối của thành phố. Ánh sáng từ điện Capitol có mái vòm sáng ngời. Quốc Hội đang làm việc khuya. Ông lại nhắm mắt, hồi tưởng đến cuộc đối thoại của ông với chuyên viên bệnh lý của Quận hồi mười một giờ năm mươi phút vào đêm Dennings chết. “Điều đó có thể xảy ra vì một cái ngã không?” “Không, rất khó có thể như thế được. Nội các cơ ức chũm không thôi cũng đã đủ tránh được điều đó rồi. Rồi người ta lại còn có cả các khớp khác nhau ở vùng cột sống cổ cần phải bị khuất phục trước đã, cũng như các dây chằng nối kết các xương lại với nhau nữa”. “Thế nhưng nói trắng ra thì điều ấy có thể xảy ra không?” “Dĩ nhiên lúc đó ông ta bị say rượu nên các cơ bắp này chắc chắn là có nới dãn phần nào. Có lẽ, nếu như lực phát sinh từ sự va chạm đầu tiên đủ mạnh và…” “Có lẽ ông ta phải rơi từ độ cao từ bảy đến mười thước trước khi chạm đất?” “Đúng, chính thế, và nếu như ngay sau cú va chạm mà đầu ông ta lại kẹt phải một cái gì đó, nói một cách khác, nếu đã có sự can thiệp lập tức của động tác xoay đầu và thân mình xét như một đơn vị duy nhất thì có lẽ – tôi chỉ nói là có lẽ thôi – ta sẽ có được một kết quả giống như thế”. “Có thể có một người nào khác đã làm điều đó không?” “Có chứ, nhưng kẻ đó nhất thiết phải là một người có sức mạnh phi thường”. Kingderman đã kiểm chứng lời khai của Karl Engtrom liên quan đến nơi chốn anh ta đang có mặt lúc xảy ra cái chết của Dennings. Về thời gian của xuất chiếu phim thì rất khớp, cũng như lịch trình của một chuyến xe buýt thuộc quận Columbia vào đêm hôm ấy. Hơn nữa, người tài xế chiếc xe buýt mà Karl khẳng định là anh ta đã bước lên bên rạp chiếu bóng lại hết phiên trực ngay tại góc Đại lộ Wiscosin và phố M. nơi theo lời khai của Karl, anh đã xuống xe vào chín giờ hai mươi phút. Việc thay đổi tài xế đã diễn ra, và người tài xế hết phiên trực đã ghi vào sổ thời gian anh ta đến tại điểm bàn giao: đúng chín giờ mười tám phút.