khống chế ngay.” Tôi gật đầu, lúc đó tôi cũng ở đây, đó đúng là “một trận chiến thành danh”, chúng nhân truyền tụng mấy năm trời. “Lần này trước khi Tô đại phu đến kinh thành đã mạnh dạn thay đổi đơn thuốc, ta và phụ thân còn sợ đổi thuốc vạn nhất có biến chứng thì không biết phải chữa trị ra sao. Không ngờ đơn thuốc này lại có thể chữa trị tận gốc bệnh của Quách công tử.” Âu Dương Lan càng cười tươi, “Ta và phụ thân đã từng nghiên cứu, đơn thuốc này thật là hiếm thấy, về sau đối với những bệnh tương tự, không cần phải bó tay bất lực nữa.” “Bệnh của Quách công tử trước đây vẫn chưa chữa được tận gốc sao?” Tôi cho rằng Quách phủ doãn luôn mời Tô Dục qua phủ, đều là để nói chuyện phiếm. “Đúng vậy, sớm nay Quách phủ doãn đã phái người đến Hồi Xuân đường, nói là Phủ doãn đại nhân muốn tặng chữ để cảm tạ Hồi Xuân đường, nhưng không biết nên đề chữ gì cho hay.” Âu Dương Lan nghĩ đi nghĩ lại một hồi, hỏi tôi: “‘Nhân tâm nhân thuật’, muội thấy có được không?” Nhân tâm? Thật là châm biếm quá mức. “Hay là ‘Diệu thủ hồi xuân’ đi.” “Sẽ theo ý muội.” Cô nương ấy lui xuống, đóng cửa lại. Tô Dục đương nhiên không phải vô duyên vô cớ đột nhiên viết ra phương thuốc trị tận gốc bệnh tình của Quách công tử. E rằng từ mấy năm trước, y đã sớm có âm mưu, dây dưa kéo dài bệnh tình của tiểu tử đó, những mong đạt được mục đích. Mà mưu tính lần này của y, không biết manh nha từ khi nào nữa? Kể từ khi tôi bắt đầu mở mang kiến thức về kinh tế cho y, hay từ khi tôi đọc cho y nghe Bản thảo cương mục. Cũng có thể là từ đêm hoảng loạn bỏ chạy, dưới ánh trăng vằng vặc, y đã sớm khắc cốt ghi tâm, đợi đến ngày có thể thu được kết quả. Buổi chiều, ánh nắng chói chang trên cao, tôi lại giống như tảng băng lạnh giá. Đường lên kinh sư dài đằng đẵng, tối đến mấy người lại ngủ chung giường, vì thế tôi rất hiếm khi có cơ hội nói vài câu với Tô Dục, cũng chưa từng hỏi y về chuyện liên quan đến Quách công tử. Tôi hỏi điều gì, y cũng nói thẳng không giấu giếm, tôi ngược lại cũng giảm thiểu được không ít hoài nghi. Trên đường đi, cứ sau mỗi lần nghỉ ngơi gấp gáp, đoàn người lại vội vã lên đường. Tô Dục luôn là người tất bật nhất, vừa đến quán trọ, y lập tức đi một vòng quanh trấn, thăm khám, chẩn bệnh cho đám ăn mày ven đường, giữa đêm tối, châm đuốc viết đơn thuốc. Sau khi hạ nét bút cuối cùng, Tô Dục giao đơn thuốc cho tên ăn mày bên cạnh người bệnh, dặn dò: “Nếu thực sự muốn cứu mạng của hắn, hãy đem tiền đi mua thuốc này, chỉ cần là thuốc thật, Tô Dục ta bảo đảm sau hai tháng, bệnh sẽ hết.” “Trước đây ngươi cũng xem bệnh không công như vậy ư?” Hứa đại phu, cũng là một danh y, đứng sau Tô Dục một đoạn đường, hiếu kỳ hỏi với. Tô Dục quay đầu nhìn lão y sư tuổi ngoại tứ tuần, “Đúng vậy, trước đây ở huyện Phụng Dương tại hạ đều làm như vậy, mấy ngày không ra ngoài nghị chẩn là cảm thấy toàn thân bứt rứt.” Tôi nghe xong, lập tức thấy kỳ lạ. Chẳng phải y đối với người bệnh chỉ có tình thương như với con kiến thôi sao, vậy hà tất phải chẩn bệnh làm phúc dọc đường như thế? “Hả, trước đây ngươi cũng từng? Bắt đầu từ khi nào?” Hứa đại phu tròn mắt thầm đánh giá Tô Dục. Tên tiểu tử này, tuổi đời còn trẻ, trước đây từng nghị chẩn, thì có thể là bao lâu? “Khoảng bốn, năm năm về trước.” Tô Dục quỳ xuống bên cạnh một người ăn mày đang kêu than đau đớn, kiểm tra vết thương đã bắt đầu lở loét trên chân hắn. Đây là ngoại thương, cần phải bôi thuốc, trên mình y cũng có thuốc trị thương, liền lấy ra bôi cho người ăn mày, sau đó lại kê đơn thuốc, miêu tả kỹ càng tỉ mỉ hình dáng của thảo dược, dặn dò người bên cạnh sau khi trời sáng, lên núi hái thuốc. Tô Dục cũng chỉ lúc này mới có chút nhẫn nại thôi, chứ nếu bảo y nói lại lần nữa, e rằng dù phụ thân y cũng không thể ra lệnh. Hứa đại phu không hiểu được nguyên do, nên sắc mặt bớt dần vẻ khinh miệt, thay vào đó là vẻ tán thưởng của bậc tiền bối đối với kẻ hậu sinh. “Nếu hết thảy đại phu trong thiên hạ đều thiện tâm như Tô đại phu, vậy thì bên đường sẽ chẳng còn xác chết phơi thây nữa.” “Hứa đại phu quá khen rồi, tại hạ chỉ làm đúng chức phận mà thôi.” Chẳng biết vô tình hay hữu ý, y nháy mắt với tôi. Mấy ngày này tôi thờ ơ lạnh nhạt, hẳn y cũng cảm nhận được điều đó. Đối với y mà nói, nghị chẩn chỉ là việc nằm trong lòng bàn tay, nếu có thể an ủi sự bất mãn của tôi, dẫu sao cũng chẳng phải việc gì quá khó. Dù sao khoe y thuật ở chỗ này, đã trở thành một loại kỹ xảo, y lại có cơ hội gặp những bệnh lạ mà nhiều khi muốn tìm cũng chẳng được. Tôi nhìn dáng vẻ người ăn mày kia cảm động cầm đơn thuốc, thực sự cũng thấy có chút an ủi. Phía dưới đơn thuốc còn đóng ấn chương của Tô Dục, y luôn mang theo nó bên mình. Nhớ đến trước đây khi trao đổi với y một chút tri thức về cách chào hàng, quảng bá sản phẩm, tôi từng hỏi y muốn quảng bá Hồi Xuân đường như thế nào. Sau khi suy nghĩ giây lát, y điềm đạm đáp, tại sao phải để người khác nhớ đến Hồi Xuân đường? Chỉ cần nhớ đến hai chữ Tô Dục là được rồi. Vì thế trên ấn chương này, trước nay chỉ có hai chữ “Tô Dục”. Thoáng chốc, đơn thuốc này không chỉ xuất hiện ở gần Phụng Dương, mà dọc đường tới tận kinh đô, đâu đâu cũng có. Bên cạnh đột nhiên xuất hiện một bóng hình, là Tiểu Thiến. Cô nàng tiến đến huých vào khuỷu tay tôi: “Thất Thất, có chuyện lớn rồi, chúng ta cùng đi xem đi.” Chưa đợi tôi hỏi rõ ràng, cô nàng đã lập tức kéo tôi di chuyển, Tô Dục và bóng dáng Hứa đại phu dần trở nên mơ hồ. Được xem cảnh tượng náo nhiệt hiếm thấy, thực ra cũng chẳng phải chuyện to tát gì, nhất lại là đại sự do Tiếu Thiến ca tụng, độ tin cậy chắc chắn phải giảm đến bảy, tám mươi phần trăm, vì thế nhiều nhặn lắm, cũng chỉ được tính là chuyện mới mẻ nào đó mà thôi. Nhưng cũng phải khen ngợi động tác nhanh nhạy của Tiểu Thiến, nhờ đó tôi và cô nàng mới có thể thấy được toàn bộ sự việc này. Chuyện nên được bắt đầu từ Nhàn Thục. Bốn năm trước, Nhàn Thục từng được điều đến thế kỷ Hai mươi mốt để định hồn, với mong muốn thay đổi môi trường sống, đồng thời mở rộng nhãn giới, tận mắt chứng kiến những thứ mới mẻ chúng tôi thường nhắc. Cũng không biết vì Hồng Kông quá hỗn loạn, hay do Nhàn Thục quá yếu gan. Khi gặp phải vụ huyết án thi thể tan tành trăm mảnh, Nhàn Thục cố gắng nhẫn nhịn trăm chiều đứng một bên lén quan sát tên sát nhân cuồng loạn nửa ngày trời, rất lâu sau mới thấy người bị hại ngừng thở để tiến tới định hồn. Nhưng, việc đó cô nàng còn chịu được, chứ đến sau này, khi hàng loạt cái chết của tử hồn trong mấy tháng đều do hắc bang cừu sát, đồng tính phạm án, đầu độc đến chết…, cô ấy bị bức tới hoảng loạn, chỉ hận một nỗi không thể ngay tức khắc lặng lẽ trở về triều Minh. Tôi và Tiểu Thiến vốn đến từ thế kỷ Hai mươi mốt, bản thân cũng không thể quay lại đó định hồn được. Khi ấy Nhàn Thục còn chưa trở thành người nhà của tướng công Lâm Thành, nên chỉ có thể lén đi đút lót Quỷ sứ Tiểu Tưởng, lại nhờ vả Tiểu Huyền Tử suốt ngày chỉ ngồi hưởng phúc chốn hoàng cung tạm thời trao đổi năm năm, thay cô nàng đến thời hiện đại. Tiểu Huyền Tử vô cùng nghĩa khí, lập tức nhận lời. Thế rồi, chính Nhàn Thục lại để xảy ra sơ suất khi định hồn tại triều Minh. Chỉ nên trách cô ấy nhát gan. Đối phương chết trước mặt hồng y tả tơi, thất khiếu trào máu, toàn thân hằn vết roi, vô cùng thảm thương, khiến khi định hồn, cô ấy không cứng tay, hồn kia nhân cơ hội chạy thoát, trở thành một tử hồn phiêu đãng khắp thế gian. Chuyện này vốn chẳng phải chuyện gì to tát, sau khi chúng tôi an ủi Nhàn Thục, liền bảo cô ấy báo cáo lên trên, để cấp trên phái Quỷ tốt quỷ quan chuyên bắt tử hồn đi là được. Dẫu sao mỗi ngày có thêm hàng ngàn vạn tử hồn, mọi người sơ hở cũng chẳng phải có mưu đồ, Nhàn Thục chết cũng chết rồi, còn có thể xử phạt thế nào chứ? Tôi nhận ra việc trừng phạt quỷ quan sai phạm dưới địa phủ rất nhẹ nhàng, có thể vì nếu bức ép quá mức, tỷ lệ Quỷ sai bỏ nghề sẽ tăng cao. Lệ quỷ[2'> hồng y quả là cực kỳ nhẫn nại, Quỷ tốt mai phục bên cạnh người hại chết cô ta hơn tháng trời vẫn không thấy có động tĩnh gì. Ngược lại lệ quỷ này còn luôn dương đông kích tây, làm không ít chuyện quấy nhiễu dọa dẫm bách tính. [2'> Lệ quỷ là một loại quỷ vô cùng lợi hại, do oán khí quá nặng mà không thể đầu thai, ở lại nhân gian cho tới khi hoàn thành tâm nguyện, tiêu trừ mọi oán khí mới có thể siêu thoát. Thời gian lâu dần, Quỷ tốt cũng không còn nhiệt huyết nữa, liền báo cho Quỷ sứ Tiểu Tưởng, bất cứ khi nào thấy nguyên nhân cái chết là: “Bị lệ quỷ hại chết”, gã sẽ lại đến bắt. Tôi hỏi Tiểu Thiến: “Như thế cũng được hả?” Đây chẳng phải là làm việc tiêu cực, lười nhác sao? Tiểu Thiến đáp: “Nothing is impossible[3'>.” Đợi khi tôi toát mồ hôi hột, cô nàng mới nói: “Số lượng Quỷ tốt khá ít ỏi, không thể ôm cây đợi thỏ mãi như thế được, chỉ cần trước khi người bị hại chết, Quỷ sai thông báo cho Quỷ tốt bắt lệ quỷ, như thế trên sổ sinh tử, tên người bị hại tự nhiên sẽ biến mất.” [3'> Không có gì là không thể. Chuyện này lần đầu tiên tôi nghe thấy, tên trên sổ sinh tử sẽ biến mất? Đến hôm đó, trên sổ sinh tử xuất hiện nguyên nhân cái chết “Bị lệ quỷ hại chết”, Tiểu Tưởng liền để tử hồn cần định hiển thị trên quạt của Nhàn Thục. Có đủ thời gian, địa điểm, tên họ, Tiểu Thiến lập tức kéo tôi đi xem Quỷ tốt bắt lệ quỷ. “Nữ tử hồn kia chính là bị người này hại chết.” Tiểu Thiến chỉ vào nam nhân trẻ tuổi đang chạy vội trên đường lớn. Khuôn mặt thư sinh yếu ớt như vậy, chẳng hiểu sao tên đó có thể hại người được. Nhàn Thục đã đến, cô ấy luôn lo lắng chuyện này, “Cô nương kia khi còn sống là kỹ nữ, khó khăn lắm mới giành dụm được chút ngân lượng, muốn sau khi chuộc thân sẽ mãi mãi sống cùng người trong mộng, không ngờ kẻ kia lại tham lam tiền bạc mà phụ tấm chân tình.” “Tiếp đó chính là đến nước cờ cũ, hạ độc giết hại!” Điều này thường thấy vào thời cổ đại. Phía sau nam nhân trẻ tuổi kia thấp thoáng bóng hồng y, sau đó cả cơ thể đều hiện rõ, là một nữ nhân yểu điệu thướt tha, rõ ràng đã đổi sang dung nhan diễm lệ, khiến tên nam nhân kia vừa quay đầu lại, hai mắt lập tức sáng lên. “Công tử đi một mình ư?” “Đúng vậy, cô nương cũng cùng đường sao?” Ba Quỷ sai chúng tôi đều thầm lắc đầu, đường này trước chẳng có người sau chẳng thấy xe, đột nhiên xuất hiện mỹ nữ, nam nhân kia sao không cảnh giác cơ chứ? Đúng là sắc dục có thể làm người ta mờ mắt. “Ừm. Cha của nô gia bị bệnh. Tướng công để nô gia mang chút ngân lượng về nhà mẹ.” Ba câu nói thẳng chủ đề, mồi nhử cũng quá rõ ràng. “Hóa ra là thế.” Vừa có mỹ nữ, vừa có ngân lượng lại thêm đường lớn không bóng người, tên nam nhân kia ham muốn chộn rộn. Ham muốn sôi trào! Ngay cả khi không quá ham muốn, một con sói gặp được điều kiện thuận lợi thế này cũng không thể vượt qua cám dỗ, tên nam nhân nanh vuốt dựng đứng chuẩn bị tư thế, thèm khát nhìn sang nữ nhân bên cạnh. Đáng tiếc sau đó không có cơ hội cho hắn kịp thỏa mãn tham dục, nữ nhân ấy u ám quay đầu, dung mạo như tiên nữ chợt biến thành khuôn mặt tử thi với ngang dọc những vết roi quất, “Ngươi còn nhớ ta không?” Tên nam nhân thất kinh, ngoài kêu gào thảm thiết, chỉ còn biết hét lên đau đớn. Quỷ tốt bên cạnh bay ra sắm vai sứ giả che chở nhân vật chính, chiến đấu với lệ quỷ hồng y, cảnh tượng trước mắt trở nên vô cùng gay cấn. “Cô ta cũng biết pháp thuật?” Tôi cho rằng lệ quỷ chỉ lợi dụng mặt mũi hung tợn để dọa người. “Đương nhiên, cô ta cũng là tử hồn, chỉ là không có chức vị ở địa phủ thôi, nhưng pháp thuật vẫn có thể tu luyện như bình thường.” Tiểu Thiến xuýt xoa, “Quỷ tốt bình thường tối thiểu cần chuẩn bị hai mươi năm pháp thuật trở lên, cũng tức là, nếu nữ ma đầu kia bền bỉ tu luyện ba mươi bốn mươi năm, thì chẳng sợ gì Quỷ tốt nữa.” Lời còn chưa dứt, lệ quỷ đã bị thu phục, Quỷ tốt bắt cô ta phục mệnh, ba nữ Quỷ sai bọn tôi chuẩn bị tìm tửu lâu uống một hai chén. Chỉ còn lại tên nam nhân kia, đờ đẫn ngồi phịch giữa đường lớn, thần trí hoảng hốt. Chương 16: Bắt Mạch Qua Sợi Chỉ Sau hai tháng vượt bao trắc trở, hai chiếc xe ngựa cuối cùng cũng đến Tử Cấm Thành. Thái y quán còn chưa có vị trí cố định, do vậy những Viện phán mới đến đều ở trong tứ hợp viện, nơi ở của Viện phán tại kinh sư, ba người một phòng, chờ đợi được sắp xếp dần dần. Tiết trời phương Bắc về cơ bản đã vào thu, mấy vị danh y phương Nam lần đầu lên phương Bắc tuy đã mặc thêm y phục, nhưng vẫn không chịu nổi gió lạnh căm căm nơi đây, vì vậy hai trong số các vị danh y không cẩn thận đã bị thương hàn, thế rồi ngay lập tức được đưa đến nơi hội thẩm, sáu vị danh y cùng nhau nghiên cứu liệu pháp chẩn trị. “Hai vị đều sốt, trúng gió, đổ mồ hôi, chân tay mỏi mệt, mạch phù, nhất định là bị thái dương thương phong, nên uống Quế chi thang.” Trương đại phu lắc lư đầu, bắt mạch nửa ngày trời, đưa ra được kết luận. “Không đúng không đúng, Hồ đại phu có thể là bị thái dương thương phong, nhưng Chu đại phu nhất định là bị âm minh thương phong. Các vị nhìn xem, ông ấy bụng căng, mệt mỏi uể oải, nằm liệt, thân nặng, tiểu tiện khó, mạch phù căng, nên chuẩn bị Hạnh tử thang mới phải.” Vương đại phu nắm tay Chu đại phu, muốn giao cho Trương đại phu, để ông ta bắt mạch lại lần nữa. “Ta cho rằng, tuy Chu đại phu mệt mỏi uể oải vì mất nước, nhưng cũng có thể là do khô cổ dẫn đến, huống hồ mạch căng, nhịp chậm, rõ ràng là thái âm thương phong. Dược đồng, chuẩn bị Quế chi thang và Thược dược thang.” Một vị đại phu khác tiếp tục nhận tay Chu đại phu, bắt mạch nửa ngày trời, lại rút ra một kết luận. Dương đại phu đang bắt mạch cho Hồ đại phu, “Theo ta thấy, Hồ đại phu mạch tượng phù căng, ông ấy từng nói miệng đắng mà khát khô, nên chắc là thiếÂu Dương thương phong, vẫn nên chuẩn bị Quế chi thang, Sài hồ đi.” “Để ta xem xem”, vừa nhận tay của Hồ đại phu, Lý đại phu lập tức lắc đầu liên tục, “Mạch tượng rõ ràng trầm căng, là thiếu âm thương phong, dùng Quế chi thang sẽ tốt nhất cho ông ấy.” “Chớ tranh cãi nữa”, Hứa đại phu ngăn bọn họ đang tranh luận sôi nổi, “Nếu cứ tiếp tục thế này, Bát trân thang trị liệu sóc dương thương phong cũng cần phải chuẩn bị.” Tôi đứng thẫn thờ phía sau tiểu dược đồng, cảm thấy chuyện này thật thú vị. Hóa ra hội chẩn chính là cảnh tượng như vậy, không biết hai vị đại phu kia trước khi bị bệnh chết, có đưa ra được kết luận nào không. Tô Dục mở cửa tiến vào, trên tay bưng bát thuốc, sau khi đặt lên bàn, liền xem như bên cạnh chẳng có người, đến đỡ hai vị đại phu dậy, kề bát thuốc bên miệng, cho họ uống. Khi mấy vị đại phu truy vấn đây là thuốc gì, y chỉ buông một câu, “Sáng sớm mai thức dậy, sẽ có chuyển biến tốt”, rồi đi ra ngoài, đương nhiên, kéo theo cả tôi vẫn trốn phía sau lưng dược đồng. “Hóa ra đây chính là danh y.” Ngay đến bệnh thương hàn bé tí tẹo cũng phải nói ra bao nhiêu tri thức liệu pháp chữa trị, một vấn đề cực kỳ đơn giản đã bị phức tạp hóa lên, đang yên đang lành tự chuốc thêm nhiều chuyện. Trở về phòng, chẳng biết Tô Dục lôi từ đâu ra một bình rượu, rót cho tôi một chén. “Có rượu!” Tôi vội chạy đến, chẳng biết y làm sao kiếm được loại mỹ tửu hương vị nồng đậm thế này, loại này tôi chưa từng được thưởng thức dưới địa phủ. “Thích rượu đến thế sao?” Tô Dục cũng tự rót cho mình một chén, nhưng lại không quá hào hứng, có thể bởi bản thân vốn là đại phu, đương nhiên hiểu rõ uống rượu hại thân, nên cũng cần phải tiết chế với những sở thích không tốt. “Ừm, tuy ta không cảm nhận được mùi rượu.” Nhưng sự kích thích mà nó mang lại nơi đầu lưỡi, cứ từng chút từng chút khiến tôi cảm thấy hưng phấn vô cùng. Tô Dục uống một hớp, nhưng không thấy có gì đặc biệt, chỉ thấy cay cay. “Như Ma hoàng thang vậy.” “Rượu này mua từ khi nào?” Không hề nhìn thấy y đến quán rượu. “Lúc nghị chẩn, một tên ăn mày cho ta, nói rằng không có gì để báo đáp, chỉ có mỹ tửu gia truyền đem đến biếu.” Y sau ngửi xong lại nói, “Vốn cho rằng chỉ là một loại rượu tầm thường, không ngờ đến khi để Hứa đại phu ở giường bên ngửi thấy mùi hương, mới biết đó là rượu ngon.” “Có mỹ tửu thế này, nhưng lại lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, rõ là lãng phí của trời.” Dù như thế, Tô Dục cũng là “của trời”, nhưng lại hoàn toàn không bị lãng phí. Mấy ngày nhàn tản này, y kéo tôi đi dạo kinh sư, xem tạp kỹ, lại nhân tiện nghị chẩn luôn. Kinh sư lúc này so với Bắc Kinh hiện đại khác nhau rất nhiều, không phồn hoa, không đông đúc, mới trở thành kinh đô, tựa như không hề thích hợp với địa vị vô cùng quan trọng của nó. Người đi lại trên đường cũng có vẻ không được tự nhiên, chẳng chút khí thế, so với bá khí “dưới chân Thiên tử đều là quan” của Bắc Kinh sau năm trăm năm, đúng là một trời một vực. Nhưng những điều này lại khiến tôi cảm thấy vô cùng thân thiết. Tô Dục của hiện tại, rất mực gần gũi, vô cùng thân thuộc. Nữ nhi trên thế gian rất dễ say lòng, quỷ quan cũng không ngoại lệ. Khi mọi sự quan tâm của y đều dành cho tôi, dù y có ngàn vạn dã tâm thì trong mắt tôi vẫn vô cùng đáng yêu, tình vẫn tràn đầy. Dù trong lòng tôi hiểu rõ, y sẽ không chỉ nghị chẩn ở kinh sư, mà cuối cùng còn muốn hòa vào vòng xoáy chốn hoàng cung, con người sẽ thay đổi. Y sẽ trở thành con người như thế nào? Điều này còn chưa biết được. Hôm nay tôi thấy một công công trong cung tiến đến. “Tô Dục, vị công công này đến đây làm gì?” “Có lẽ đợi hai ngày nữa, chờ Hồ đại phu, Chu đại phu hồi phục đôi chút, đám đại phu chúng ta sẽ đi diện kiến Thái tử.” Y chuyển chủ đề, lại quay về với mỹ tửu, “Sau này ta nghị chẩn, sẽ chỉ nhận mỹ tửu, mang về để nuôi sâu rượu là nàng.” “Ta chỉ tham lam một chén thôi.” “Sau này nếu trở về Phụng Dương, ta sẽ mở ‘Tô thị tửu phường’ vì nàng, vừa sưu tầm, vừa nấu mỹ tửu.” Y nhướng cao khóe miệng, tựa như đã thấy trước được tương lai, “Đích thân ta sẽ học nấu rượu, tuy chưa từng nấu, nhưng chỉ cần dốc lòng, nhất định không có việc gì khó.” Mấy ngày tới, sẽ tận mắt chứng kiến sự xa xỉ của hoàng gia, liệu y có còn nghĩ đến tửu phường bé nhỏ ấy nữa không? Nhưng chí ít trong lòng tôi hiện tại cũng ngập tràn cảm giác hạnh phúc thực sự. “Sẽ treo đầy chuông trong hầm rượu của tửu phường, thường xuyên khóa lại, ta nghe thấy tiếng chuông sẽ biết nàng đi lấy rượu, cũng không sợ có trộm vào cuỗm rượu.” Y thực sự đã suy nghĩ nghiêm túc. Y kéo tay tôi đặt vào lòng bàn tay mình xoa xoa. Chẳng thể thấy dung nhan, ánh mắt của tôi, cho nên thứ yêu thích nhất của y là tay tôi. Tô Dục chăm chú lật qua lật lại bàn tay tôi khiến tôi thấy hoài nghi, nếu có kiếp sau, y liệu có thể dựa vào đôi tay này mà nhận ra tôi? Có mấy nam nhân trên đời này thích được một nữ nhân không nhìn rõ mặt mũi? Tôi không biết, tôi chỉ biết một mình Tô Dục mà thôi. Chỉ vì điểm này, tôi liền mở miệng: “Tô Dục, mắt ta không lớn, là mắt một mí, sống mũi hơi gẫy, môi không căng mọng nhưng cũng chẳng mỏng.” Tôi không biết vào cái đêm của năm trước, y sờ lên mặt tôi có cảm nhận được những điều đó không, dung mạo mà tôi đang miêu tả đó là của khi tôi còn sống. “Ta không xinh, cũng không nổi bật giữa đám đông, thích mặc y sam màu xanh, đi hài màu trắng, tóc dài quá vai một chút sẽ cắt, chỉ để vừa đủ buộc lại như đuôi ngựa mà thôi.” “Ta không hoạt bát, cũng không nhanh mồm nhanh miệng, không chủ động, không nịnh nọt, cũng không thông minh, là một người hay yếu lòng, làm việc do dự không quyết, rụt rè chẳng bộc lộ nổi suy nghĩ của mình.” Tôi dừng lại, lấy hết dũng khí. “Nhưng ta thích chàng, Tô Dục, ta yêu chàng.” Đó là màn tỏ tình của tôi, lần đầu tiên, duy nhất, cảm động lòng người trong vòng bốn mươi năm cuộc đời. Tôi đột nhiên cảm thấy, có thể nói ra được những điều ấy thì dù sau này không còn cơ hội nói ra nữa cũng tốt. Tình yêu đầu, tôi đối với Tô Dục mà nói, là mối tâm tình mơ hồ được đâm chồi nảy lộc trong vòng chục năm, cùng với những dựa dẫm mơ hồ, đây là lần đầu tiên chúng tôi cảm động dựa vào nhau thế này. Tình yêu của chúng tôi thuần khiết, không mang tạp chất, không nhiễm danh lợi thế tục. Thế nhưng, thông thường, khi người ta đang trải nghiệm khoảng thời gian tươi đẹp nhất, lại bị bức đối diện với hiện thực tàn khốc, thì cuối cùng tình yêu sẽ trở thành nỗi tiếc nuối đầy mỹ lệ. Sử thư có chép, Chu Cao Sí tính cách trầm ổn, nho nhã lại nhân ái, chỉ là không thích võ nghệ, nên không được Chu Đệ yêu quý. Tuy nhiên, nhi tử của ông ta lại rất được lòng Hoàng đế Chu Đệ, bởi vậy ông ta mới có thể giữ được ngôi vị Thái tử của mình. Nếu không, rất có khả năng Nhị hoàng tử Chu Cao Hú chiến công hiển hách đã được lập làm Thái tử. Quá trình bái kiến Thái tử giống hệt một như cảnh trong một bộ phim lịch