n quan tâm đạc biệt.” Chu Trường Lộ thở dài, rồi dịu giọng, “Tôi chẳng muốn thấy cháu thường xuyên ở đây.” Na Lan vẫn chưa hiểu, “Cháu bị ngất, rồi được đưa về đây như thhế nào?” “Đội trưởng Ba Du Sinh đưa cháu đến. Cụ thể thì phải hỏi anh ấy.” “Ba Du Sinh?” Na Lan ngạc nhiên, bỗng cảm thấy cái tên này như cách xa đã mấy năm. Cô nghển cổ nhìn quanh. Chu Trường Lộ nói, “Anh ấy có việc, đi rồi. Lúc nãy vừa gọi điện hỏi thăm tình hình của cháu.” Na Lan “Vâng.” Cô hơi thất vọng. “Tôi đã trở lại rồi đây!” Cửa bị đẩy ra, Ba Du Sinh bước vào. Chu Trường Lộ mỉm cười ra hiệu cho Na Lan nằm xuống nghỉ ngơi, rồi ông đọc các ghi chép theo dõi. “Điện tâm đồ và huyết áp không vấn đề gì. Các chất điện giải cũng cân bằng. Tôi đoán rằng cháu quá căng thẳng thần kinh, dẫn đến huyết quản bị co giãn bất thường, huyết áp thấp, máu lên não không đủ, rồi bị ngất. Tôi biết gần đây cháu rất vất vả, từng gặp nguy hiểm, bị ngất là phản ứng khi thể lực tinh thần cùng suy giảm. Không đáng ngại, cứ nghỉ ngơi rồi sẽ ổn.” Ông gật đầu với Ba Du Sinh rồi bước ra ngoài. Na Lan nói, “Em cứ ngỡ anh đã rút ra thật, không quan tâm nữa.” “Xem chừng anh không thể đứng ngoài cuộc. Cô đã vài lần gặp nguy hiểm, anh phải cử các anh em ngầm bảo vệ cô sát sao giống như vụ án ‘năm xác chết’ năm xưa mới được.” Lần này có thể gọi là vụ án “mười hai xác chết” không nhỉ? “Không cần thiết anh ạ. Hình như em vẫn có thể gặp cứu tinh.” “May sao trước khi ngất cô đã gọi điện cho Sở Hoài Sơn, anh ta nói đường dây thông mà không nghe tiếng cô, đâm lo bèn liên lạc với Kim Thạc, nói là cô đi dốc Mễ Lung.” Na Lan rất kinh ngạc, thầm nghĩ, sao mình lại quên rằng đã gọi điện cho Sở Hoài Sơn? Nhưng cô không nói ra nữa, nói ra chỉ thêm rắc rối. Trong vụ án ở núi Trường Bạch, trí nhớ và trạng thái tinh thần của cô đã giảm sút, rất có thể lúc trước cô có gọi cho Sở Hoài Sơn nhưng bây giờ không nhớ ra. Theo cách nói của giám đốc Chu tức là não bộ bỗng nhiên thiếu máu, rất có thể sẽ quên mất những hành động dạng tiềm thức như gọi điện thông báo. Và, có đúng là có người bám theo mình không? “Dốc Mễ Lung rộng như thế, sao các anh tìm được em?” “Phải cảm ơn Sở Hoài Sơn. Anh ta nói rằng chỉ nghe thấy di động của cô có tiếng gió rít, tiếng nước chảy, nên đoán là cô đang ở gần bờ sông, cảnh sát đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm và tìm thấy cô không mấy khó khăn. Cô nằm ngất trên tảng đá to, đầu dốc xuống đất, tư thế rất kỳ lạ. Giám đốc Chu nói bị ngất do thiếu máu lên não thì tưu thế ấy rất có lợi, và ngẫu nhiên lại phhù hợp với nguyên tắc cấp cứu người bị ngất do tuần hoàn máu kém.” “Các anh đã phát hiện được gì ở đó nữa?” “Bộ hài cốt bị chôn trong vách đá.” Giiọng Ba Du Sinh bỗng trầm hẳn xuống. “Quan Tinh?” Ba Du Sinh gật đầu. Trí nhớ nhớ của mình chưa đến nỗi bị tổn thương, đúng là mình đã nhìn thấy bộ hài cốt ấy, dù đó là một sự thật tàn khốc. Cô hơi co người lại, ánh mắt thoáng nét xót xa. Ba Du Sinh, “Cứ chịu khó tĩnh dưỡng. Cô đừng sang gặp Mễ Trị Văn nữa. Lâu nay anh không tham gia điều tra vụ án ‘ngón tay khăn máu’, đôi lúc tĩnh tâm suy nghĩ thấy rằng không nên để cô hao tâm lực vào hài cốt của các vụ án cũ làm gì. Thực khó tưởng tượng những chuyện thê thảm ấy sẽ tàn phá tinh thần và tâm lý của cô bé như cô đến đâu.” Na Lan ngượng cười, “Em là người trưởng thành rồi.” Nhưng nước mắt cô tuôn trào. Khi nghe Nghê Phượng Anh và Quan Tinh bị đất đá lạnh lùng chôn vùi, họ cũng đã trưởng thành. Ba Du Sinh nói đúng, cô học ngành tâm lý, càng dễ hình dung nỗi đau hình thành như thế nào. Lòng người đâu phải gỗ đá, nếu cứ tiếp tục như thế này cô sẽ suy sụp như cây cầu độc mộc bị nắng mưa tàn phá. Lần bị tàn phá gần đây nhất chỉ cách đây một năm. “Vụ án sẽ tiếp diễn, chỉ cô mới có thể chấm dứt cơn ác mộng này.” Lời của Mễ Trị Văn vẫn văng vẳng bên tai nhhư nhạc chuông báo tang ngân nga kéo dài. Na Lan nói, “Em vẫn phải gặp Mễ Trị Văn.” “Trước mắt, cô tạm thời không gặp lão được.” “Giám đốc Chu nói thể lực của em không vấn đề gì…” “Không phải vì thế. Mà là chiều nay Mễ Trị Văn bỗng bị ngất, vừa nãy anh đã tạt sang đó lão vẫn chưa tỉnh. Giám đốc Chu đã bố trí người quan sát, hiện giờ lão mới tạm ổn.” Na Lan hậm hực nói, “Biết chọn đúng lúc để ngất thật!” Đồng htời cô cũng nghĩ, mMễ Trị Văn có thể từ giã cõi đời bất cứ lúc nào, nếu sự việc còn đúng như lão nói “vụ a1n ngón tay khăn máu sẽ còn tiếp diễn”, nếu lão chết thì sẽ là mất hết mọi manh mối? Hoặc là, lão vẫn đang bỡn cợt người ta, chính lão là hung thủ, vậy nên mong lão chết sớm hay nên mong lão được kéo dài sự sống? Ba Du Sinh trầm ngâm. Na Lan ngẩng nhìn anh, biết anh đang do dự định nói gì đó. Bèn hỏi, “Lẽ nào… lão đã đoán trước hôm nay em tìm thấy hài cốt của Quan Tinh?” “Chắc thế. Cho nên trước khi ngất, lão đã để lại cho cô một chữ mới.” Na Lan thấy toàn thân ớn lạnh, đầu lại ngâm ngẩm. Một chữ mới. Tức là một bộ hài cốt. Chỉ cô mới có thể tìm thấy. Cô lẩm bẩm, “Bao giờ lão mới chịu thôi?” Cô nhìn Ba Du Sinh, “Anh đưa cho em xem đi!” Ba Du Sinh lắc đầu, “Đừng nói cô chưa khỏe, mà dù đã khỏe trở lại thì anh cũng không muốn cô sa lầy vào vụ án vô tận này nữa. Anh đã đề nghị cấp trên đưa anh trở lại tham gia khám phá, với tư cách hỗ trợ cũng được, cậu Kim Thạc vẫn là chỉ huy.” Ba Du Sinh sẽ chỉ là nhân viên của Kim Thạc. Na Lan nói, “Chỉ em mới giải được cái chữ kia.” Ba Du Sinh, “Anh cũng phải có trách nhiệm với sự an toàn và sức khỏe của cô.” “Vụ án này kết thúc thì em mới an toàn và khỏe mạnh được. Anh nghĩ mà xem, dù có phaải Mễ Trị Văn làm hay không, nhưng nếu lại xảy ra án mạng thì áp lực sẽ ra sao? Em có thể yên tâm được không?” Ba Du Sinh im lặng rất lâu, rồi mới nói, “Anh nhận ra một điều, kể từ khi gặp Mễ Trị Văn, có cảm giác…” Anh lựa chọn từ ngữ. Nhưng Na Lan dứt khoát nói, “Từ sau khi gặp lão, đúng là tâm trạng của em không ổn định, sự thật là thế.” “Có biết nguyên nhân không?” “Em thấy sợ. Tuy chấp nhận làm việc này nhưng đúng là em sợ tiếp cận tội phạm. Và em cũng quá nhạy cảm nữa, em hay nghĩ về các nạn nhân.” Cô đã rất nhiều lần nghhĩ đến vấn đề này. “Cô khiến anh nhớ đến một cậu thanh niên quen mấy năm trước trong một vụ án lớn, cậu ấy có chút khả năng đặc biệt, có thể cảm nhận ra nỗi đau của người khác, không phải nỗi đau tinh thần mà là cảm giác đau đớn thể xác thực sự.” Na Lan ngượng cười, “Em chưa đạt đến trình độ ấy, em chỉ cảm nhận một cách trìu tượng mà thôi.” “Cho nên, những người như cô…” Anh lại thấy bí từ ngữ, “… sẽ có sự nhạy cảm đặc biệt hơn người, sẽ là chuyên gia tâm lý xuất sắc, sẽ trợ giúp rất lớn cho bọn anh phá án nhưng cô sẽ rất đau khổ.” Ông Chu Trường Lộ bước vào phòng, Ba Du Sinh khẽ nói với ông mấy câu, chắc là hỏi về thể chất của Na Lan. Rồi anh trở lại bên giường cô, nói, “Được! Nhưng cô phải chịu khó tĩnh dưỡng đến ngày mai. Mai mà phải lên lớp thì cứ lên, còn được nghỉ thì cũng phải hoàn thành bài vở của tổ nghiên cứu sinh đã rồi hãy đến Sở. Chúng ta sẽ cùng tấn công giải mã cái chữ mới ấy.” Na Lan hỏi, “Mễ Trị Văn trước khi hôn mê đã đưa ra chữ này, và phải nói vài câu gì đó nữa , đúng không?” Ba Du Sinh hơi ngạc nhiên, “Nói gì?” “Chắc chắn lão sẽ nói Na Lan làm việc quá chậm, sẽ không kịp mất! Sắp xảy ra vụ án ‘ngón tay khăn máu’… đại loại như thế.” Ba Du Sinh hỏi, “Sao cô biết?” “Cho nên anh mới đề nghị được trở lại điều tra…” “Thực ra tôi chưa từng cắt đứt với vụ án này.” “Nhưng lần này anh đề nghị được chính thức trở lại tham gia điều tra, dù làm cấp dưới cũng được. Đủ thấy anh đã càng coi trọng vụ việc. Anh vừa nói hai chữ ‘tấn công’ thì là cấp bách rồi!” Ba Du Sinh ngượng cười, “Cô ngày càng đáng sợ!” Anh đứng lên, mỉm cười. “Anh thăm đến đây thôi, còn phải nhường lượt cho sếp Kim Thạc.” Lần này thì đến lượt Na Lan cười nhăn nhó. Kim Thạc đến, cầm theo một bó hoa. Na Lan nhẩm rất nhanh, có nên học tập đại sư Thương Hiệt giả vờ đã ngủ? Nhưng không kịp nữa. Mà cũng không nên tưởng tượng xa xôi quá. Mang theo hoa vào thăm bệnh nhân cũng đúng phép lịch sự thôi mà. Ba Du Sinh bắt tay Kim Thạc, cả hai chào hỏi mấy câu, rồi anh bước ra luôn. Kim Thạc ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường nói, “Rốt cuộc tôi đã hiểu tại sao Sở Công an và anh Ba Du Sinh luôn muốn cô tham gia. Cô đúng là rất khác thường.” “Chứ còn gì! Tôi là người luôn gặp vận đen chí mạng, luôn bị rắc rối bám theo. Công an sinh ra để giải quyết các rắc rối cho nên mới dùng tôi để nhử rắc rối ló mặt ra.” Kim Thạc bật cười, khi không cố làm bộ giữ kẽ thì anh vẫn là một chàng trai đáng mến. Anh nói, “Tôi cầm đến cho cô một thứ rất hay.” Na Lan mới chỉ thấy bó hoa chứ không thấy gì khác. “Còn nhớ hôm qua nhờ tôi tìm băng ghi âm vở kịch nói Nhà chứ?” Na Lan mừng rỡ, “Anh đã tìm được à?” “Không.” “Lại trêu nhau rồi!” Na Lan trách khéo. Kim Thạc cười đắc ý, “Không tìm được trích đoạn băng ghi âm, nhưng tôi tìm được băng ghi âm của vở kịch đó!” Na Lan mỉm cười, “Sồng ở thủ đô có khác, ăn nói lắt léo!” “Nhưng nếu chưa từng sống ở thủ đô thì không thể kiếm nổi băng ghi âm này. Tôi đã nhờ các đồng nghiệp tìm ở đài phát thanh, đài truyền hình, thư viện, phòng hồ sơ… Giang Kinh, đều không có. Sau đó nhờ người quen ở Bộ Công an tìm tư liệu về kịch nghệ Trung Quốc, từ đó lần ra Viện Kịch nghệ Trung ương, họ có ccả một kho băng ghi âm đáng tin cậy và hoàn chỉnh nhất!” “Có lý!” “Viện Kịch nghệ Trung ương có nhiều bản Nhà khác nhau, nhưng không có bản ghi âm do đoàn kịch nói Giang Kinh biểu diễn những năm 60.” Na Lan thầm nghĩ, gã điển trai này đừng vòng vo tam quốc nữa thì tốt. Cô nói, “Cũng không đáng ngạc nhiên, vì nó chưa phải cuốn băng tiêu biểu đặc sắc gì.” “Sau đó một giáo sư già ở khoa Biểu diễn Viện kịch nghệ Trung Quốc mách nước cho, nơi có nhiều khả năng lưu trữ băng ghi âm của đoàn kịch Giang Kinh chính là một đồng nghiệp của cô…” “Càng nghe càng thấy khó hiểu quá.” “Đại học Giang Kinh có Học viện Nghệ thuật Biểu diễn đúng không?” “Có! Tiền thân của nó là Trường Hí kịch Giang Kinh. Sau khi sáp nhập vào Đại học Giang Kinh thì nó biến thành một học viện.” “Trong khoa Biểu diễn của Học viện có một giảng viên là dân Giang Kinh chính cống, cũng laà nhân vật kỳ cựu trong giới văn nghệ Giang Kinh, thường say mê sưu tầm tư liệu. Tôi bèn gọi điện hỏi, quả nhiên bà ấy có! Nhưng bà ấy không thể đưa cho vì nó là báu vật của bà, ở dạng băng cổ lõ sĩ, nếu muốn nghe tại nhà bà thì được. Bà nói là không ngại gì, vì chính bà thỉnh thoảng vẫn mở các băng cũ ra nghe.” “Cũng vừa khéo tôi đang muốn hỏi vài điều về vở kịch đó, anh giúp tôi nói với bà ấy được không?” “Định bao giờ đến chỗ bà ấy?” “Tối nay.” Chỉ còn hai giờ nữa là đến “tối nay”. Chu Trường Lộ xem lại các chỉ số về thể trạng Na Lan rồi đồng ý cho cô rời buồng hồi sức cấp cứu. Nếu biết ngay sau đây Na Lan lại đi điều tra các tình tiết vụ án, chắc ông sẽ giữ cô lại đến sáng mai luôn. Na Lan biết mình không thể chờ nổi nữa. Sau khi phát hiện ra hài cốt của Quan Tinh, và Mễ Trị Văn lại tung ra một chữ mới, Na Lan có cảm giác gấp gáp rõ rệt. Trò chơi này còn kéo dài đến đâu? Lẽ nào vụ “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn thật? Cô chưa biết cuốn băng ghi âm bà mẹ Mễ Trị Văn biểu diễn kịch nói có đem lại bước đột phá cho công tác chinh sát hình sự không, nhưng cô có cảm giác đây sẽ là một khâu quan trọng để tìm hiểu Mễ Trị Văn và tìm hiểu vụ án “ngón tay khăn máu”. Học viện Nghệ thuật Biểu diễn trực thuộc Đại học Giang Kinh, vốn là trường Hí kịch Giang Kinh, sau khi sáp nhập nó vẫn ở địa chỉ cũ phía tây khu Văn Viên, cách Đại học Giang Kinh hai mươi phút đi bộ. Gần đay Na Lan sinh hoạt chẳng theo quy luật gì, đi bơi cũng không có thời gian, lại vừa bị ngất… lúc này cô vẫn rất đuối sức bèn đi tàu điện ngầm cho đỡ mệt. Cửa tòa nhà văn phòng khoa Biểu diễn đóng im im, cô đang do dự thì một bà già chợt mở cửa bước ra. “Cháu là Na Lan à?” “Chào cô Nhiếp!” “Vào đi!” Bà Nhiếp Dương giảng viên khoa Biểu diễn dẫn Na Lan vào, cửa khu nhà tự động đóng lại. Đèn hành lang sáng sủa, có thể thấy rõ chiếc áo khoác len của bà rất đẹp và trang nhã, lưng bà vẫn thẳng, bước chân vẫn nhanh nhẹn gọn gàng. “Xin lỗi nhé, bắt cháu phải đến tận đây. Nhưng cuốn băng đã quá cũ, đem đi đem lại tôi không yên tâm, nhất là cho chạy bằng máy lạ e sẽ gây ra hậu quả.” Ấn tượng đầu tiên của Na Lan là bà rất thẳng thắn. Bước vào phòng làm việc của bà, Na Lan bỗng sủng sốt, không nghĩ gì thêm về bà nữa. Trên tường treo kín ảnh lớn nhỏ, chụp sân khấu kịch, chụp các diễn viên, áp phích quảng cáo truyền hình hoặc kịch nói. Trong đó đều có bà và Nhiếp Dương cùng với rất nhiều diễn viên sáng giá như Bốc Tồn Hân, Phan Hồng, Lý Mặc Nhiên, Phùng Viễn Chinh, có một số ảnh cũ bà Nhiếp Dương chụp với các diễn viên mà Na Lan chịu không biết là ai. Bà chỉ vào một bức ảnh đen trắng, nói, “Tôi chụp với thầy Tào Ngu.” Bức ảnh in lại thì phải, bản gốc chắc chắn đã cất lại vào album. “Ông ấy chuyển thể Nhà của Ba Kim rồi đưa lên sân khấu.” Bà Nhiếp Dương nói, “Bảo là chuyển thể, nhưng tôi cho rằng nói là sáng tác thì cũng không quá lời.” Lúc này Na Lan đã nhìn thấy chính diện bà Nhiếp Dương. Tuổi đã cao nhưng bà vẫn rất trẻ, đôi mắt boồ câu của cô gái tuổi hai mươi với khuôn mặt luôn tươi cười. Na Lan nói, “Phần lớnảnh và quảng cáo các cô gái chàng trai ở đây cháu không biết là những ai.” “Không biết là phải, vì họ đều là các văn nghệ sĩ Giang Kinh và có nhiều người không mấy tên tuổi, ai có tê tuổi thì lại là lớp người quá xa xưa.” Bà chỉ một tờ quảng cáo cỡ lớn, in đen trắng, “Ví dụ đây là Trang Điệp, thập kỷ 30-40 nổi tiếng khắp nam bắc Trường Giang, là người Giang Kinh, nhưng nay chẳng ai nhắc nữa.” Cả hai ngồi xuống đi văng. Na Lan nói, “Cháu rất muốn biết cô dùng máy gì để chạy lại băng ghhi âm cổ điển?” Nhiếp Dương cười dí dỏm, cầm chiếc laptop lại, nói, “Cáo này.” Na Lan ngạc nhiên, “Thì ra cô có bản điện tử, sao cô không gửi cho Sở Công an, và cháu cũng không phải lặn lội đến làm phiền cô buổi tối.” “Vì cô muốn làm quen với cháu.” Na Lan lại ngạc nhiên, “Cháu… rất vinh dự nhưng quả là…” Nhiếp Dương thẳng thắn hơn Na Lan tưởng. “Cháu là cô gái được bàn tán nhiều nhất của Đại học Giang Kinh, nên không ai không tò mò về cháu. Có cơ hội gặp thì không thể bỏ qua.” Na Lan ngượng cười, “Cô nói thế thì cháu hết cơ hội để xấu hổ rồi.” Nhiếp Dương cười ha ha hệt như nam giới. “Trăm nghe không bằng một thấy là thế! Nói thật nhé, cô rất muốn làm quen với cháu để thỏa trí tò mò. Cô, có lẽ mắc bệnh nghề nghiệp – cái nghề chuyên mô phỏng bắt chước – nên rất hay suy ngẫm về người khác, gặp những người thú vị, cô thường phân tích về tính cách, ngôn từ, cử chỉ của họ ra sao, cho nên cô dạy học thì được chứ không thể ra biểu diễn thật, kẻo sẽ mắc chứng đa nhân cách như chơi!” “Ở Giang Kinh chúng ta có một vụ án điển hình…” “Uông Lan San!” Nhiếp Dương nói luôn, và chỉ về phía góc tường. “Có tranh có ảnh đủ cả. Nghe nói bà ấy có đến mấy chục nhân cách, diễn xuất quá nhập vai, rốt cuộc bị đa nhân cách, chỉ còn nước vào viện tâm thần, nhà dưỡng lão mà ở!” Na Lan nhìn bức ảnh chụp chung treo trên tường đúng là Nhiếp Dương với suối tóc bạc lóng lánh như tơ và một bà già tóc xám rối bù, họ ăn mặc trang điểm rất khác nhau, trông uls già hơn một hai chục tuổi nhưng thần thái cả hai đều tươi roi rói, vẻ rất thân thiết. Na Lan lại hỏi, “Cô và bà uls đều rất mê mô phỏng, hẳn phải tuyệt vời siêu hạng?” “Mô phỏng là kỹ năng cơ bản của biểu diễn, cô và bà ấy có nổi trội một chút nhưng chưa đạt đến trình độ cao siêu như các diễn viên thượng hạng. Cháu gọi là tẩu hỏa nhập ma cũng được.” Trên đời này sao có lắm người tẩu hỏa nhập ma thế nhỉ? “Chắc cô biết quá rõ về những chuyện ngớ ngẩn đáng buồn của cháu. Nhưng lần này cháu đến đây không phải vì bản thân cháu.” “Vì ai trong vở kịch Nhà?” Bà thật thông minh. “Minh Phượng.” “Hoàng Tuệ Trân?” Nhiếp Dương nghĩ ngợi. “Tiếc rằng cô không biết gì về bà ấy, bà ấy thuộc lớp trước, lại không sắm vai chính nên chẳng mấy ai tìm hiểu nhiều. Diễn xuất của bà trong vở kịch này cũng khá, tuy hơi non nhưng vẫn là có nghề, có thể coi là một điểm sáng của vở kịch. Dàn diễn viên nói chung là bình thường, do diễn viên hạng nhì của đoàn kịch nói phối hợp với một số diễn viên quần chúng ở cơ sở dựng vở nhân dịp liên hoan sân khấu, khá nhất là Minh Phượng do sắm vai. Chắc cháu biết rồi, Hoàng Tuệ Trân sẵn có nét u buồn, Minh Phượng vốn là một a hoàn, a hoàn yêu cậu Ba con trai ông chủ nhưng không môn đăng hộ đối nên cậu ba không cưới được, về sau coô ta bị đưa đi làm thiếp, thất tình nhảy xuống hồ tự tử. Đó là một vai rất bi kịch.” Nhiếp Dương lại nhìn lên bức ảnh. “Hoàng Tuệ Trân có liên quan gì đến vụ án của các cháu à?” “Bà ấy về sau mất tích, con trai bà ấy là một phạm nhân. Cháu hy vọng tìm thấy bà ấy, thì rất có thể bà sẽ… thuyết phục người con trai hợp tác với bọn cháu.” “À, ra thế. Lát nữa chúng ta cùng nghe, cháu sẽ thấy giọng của Hoàng Tuệ Trân rất đặc biệt, chất giọng êm dịu, du dương mềm mại như con gái Giang Nam. ‘Đã yêu ai thì mình rải lối đi bằng phẳng cho người ấy chứ đừng biến thành một gánh nặng của người ta…’” Nhiếp Dương bỗng cao hứng cất giọng buồn buồn “nhại” một câu thoại của mp trong vở kịch Nhà. Na Lan bàng hoàng, khi Nhiếp Dương bắt trước giọng của mp, cô thấy dường như bà đã biến thành một người khác! 26 GẶP LẠI THUYẾT ĐOẠT HỒN Trong phòng họp của đội cảnh sát hình sự, cửa đóng kín, im lặng, thỉnh thoảng có tiếng ai đó uống hớp nước. “Chữ” thứ ba của Mễ Trị Văn đưa ra hôm qua được máy chiếu phóng đại trên màn vải trắng treo ở cuối phòng họp. Màu mực đỏ như máu. Ba Du Sinh mải miết suy nghĩ, không thể tĩnh tâm ngồi yên ở ghế được, cả buổi chiều anh chỉ đi ra, lát sau đi vào, rồi lại đi ra. Lần này đẩy cửa bước vào, phía sau anh là chiến sĩ trẻ bưng năm suất cơm hộp. Na Lan cố ý cúi đầu xuống. Tối qua nghe băng ghi âm ở nhà Nhiếp Dương đến gần nửa đêm mới về, nằm trằn trọc mãi bởi vì cơn ác mộng cô gái bị trói vào giá chữ thập rồi chôn sống. Ngủ thế này còn khổ sở hơn không ngủ. Rồi lại nhớ đến đoạn thoại ai oán của mp do Hoàng Tuệ Trân sắm vai, “Em phải tìm đến cái chết…” “Em chỉ muốn nhìn anh một lần nữa…” sự bi đát và tuyệt vọng của một cô gái đã quyết địnhgiã từ cuộc sống. Sau đó lại là hình ảnh Hoàng Tuệ Trân tươi trẻ yêu kiều tóc đuôi sam đen nhánh biến thành bà Nhiếp Dương tóc bạc. Rồi cũng chịu đựng được đến mờ sáng, cô dậy rửa mặt chải đầu, soi gương và ngớ ra, Na Lan trong gương, quầng thâm dưới mắt càng rõ hơn, gần như chiếm nửa khuôn mặt. Cô cố cứu vãn, đắp khăn nước ấm, xoa kem lấp vết nhăn, đánh phấn, kẻ mi mắt… vận dụng hết chiêu thức. Nhưng người trong gương trông vẫn như con gấu trúc! Cho nên giờ cô cứ như Tây Thi đang ốm, đầu lúc nào cũng cúi xuống. Trong phòng họp, ngoài Na Lan ra còn có một kỹ thuật viên của Sở Công an cùng hai chuyên gia được mời đến, một chuyên gia bút tíc học và một bậc thầy văn tự học của Học viện Văn học thuộc Đại học Giang Kinh là ông Dư Hoán Hy. Trước mặt mỗi ngườ đặt một máy tính xách tay, có cả iPad để đôi khi lên mạng tra cứu, phát biểu quan điểm… Nhưng Na Lan biết, từ cách đây hơn một giờ mọi ý tưởng đã khô kiệt. Cơm hộp ư? Dù có cả thùng chất kích thích cũng không thể khiến các chuyên gia phấn chấn được. Cô cũng bế tắc. Ba Du Sinh cũng nhận ra tất cả chưa có tiến triển gì, anh nói, “Chúng ta ăn tạm một chút đã, ăn xong sẽ tổng kết rồi về nghỉ vậy.” Ông dhh nói, “Không cần ăn, tôi về ngay bây giờ kẻo bà xã lại kêu là ra ngoài nhậu nhẹt. Thật ra tôi đã làm phí thì giờ của các vị. Chữ này không liên quan gì đến văn tự Trung Quốc cả, các vị nên mời chuyên gia ký hiệu học xem sao.” Na Lan tán thành quan điểm của ông. Chữ lần này rất khác với hai chữ lần trước. Hai chữ kia còn có cấu trúc, đường nét hẳn hoi, có bóng dáng của chữ Hán thời cổ, nhưng chữ này thì quá xa với định nghĩa về “chữ” truyền thống. Nó chỉ là tập hợp rời rạc của các khoanh tròn và đoạn thẳng. Cụ thể là 7 vòng tròn và 5 nét sổ. Kỹ thuật viên của Sở nhân dân đây tổng kết luôn, “Chúng tôi cũng đã gửi cho vài chuyên gia ký hiệu học, họ đưa ra một số quan điểm, là thuyết về bát quái, thuyết về mật mã Morse, và thuyết về tranh vẽ của nhi đồng…” Ba Du Sinh hỏi, “Nhi đồng vẽ à?” “Có nhiều đứa trẻ khi mới tập vẽ thường hay vẽ vòng tròn và nét thảng, ví dụ vòng tròn là đầu, đường thẳng là thân mình hoặc tay, chân; vòng tròn là tán lá cây, đường thẳng là cành cây; hình tròn là hoa, đường thẳng là cuống hoa; ba đoạn thẳng nối nhau thành