Đọc truyện ma- Mắt âm dương

n có người thì lúc họ leo lên chắc chắn đã bị phát hiện, tại sao không có động tĩnh gì? Quái gở vẫn là quái gở! Họ tận mắt trông thấy mái chèo dưới nước bị người điều khiển hẳn hoi, trong khoang thuyền có người là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều rút súng, lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng rồi từ từ đẩy của khoang thuyền, cùng với tiếng cánh cửa kèn kẹt mở ra, cả hai vội nép sang một bên theo phản xạ. Thật bất ngờ, chào đón họ không phải là đạn, mà là một khoảng lặng vô cùng sau tiếng kẹt cửa, gió trên sông chợt đóng sập cửa khoang thuyền lại khiến Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe tiếng mà thót cả tim. Dương Hoài Ngọc lấy từ trong ba lô ra một cái đèn pin rất đẹp, Vương Uy mới thấy lần đầu, nó rất giống với đèn trên mũ lặn, nhưng cự li chiếu sáng rất xa, mà cũng sáng hơn nhiều.p> Vương Uy tay cầm súng, dè dặt tiến vào khoang thuyền, Dương Hoài Ngọc soi đèn theo sau. Cô soi khắp khoang thuyền một lượt, nhưng không thấy có dấu vết con người. Những thứ bày biện trong khoang toàn đồ cổ, từ bàn ghế kỷ trà trạm trổ hoa văn đến đủ loại binh khí đao thương kiếm kích đã han gỉ đến không nhận ra hình dạng gì nữa. Dường như tất cả đồ gỗ chạm trổ trong này đều có màu đen thẫm, sờ vào thấy âm ẩm, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu.p> Trong khoang thuyền giăng đầy mạng nhện, những con nhện to bằng bàn tay quơ quơ những cái chân lều nghều xù xì, bò đi bò lại trên đó. Dương Hoài Ngọc và Vương Uy đến gần lũ nhện, nhưng chúng vẫn bò lổm ngổm, coi như họ không tồn tại. Vương Uy nói: – Đay là khoang chính, xem ra nhiều năm nay không có người vào đây. Nếu những tên áo vàng bước lên thuyền mà bác Tôn thấy là người sống, chắc chắn khoang chính sẽ không như thế này. Dương Hoài Ngọc gật đầu, chuyện này đúng là rất kỳ lạ, họ lượn qua cả khoang một lượt, nhưng không thấy bất cứ thứ gì có giá trị. Tiếp đó, họ bước xuống tầng dưới. Tầng dưới lẽ thường là nơi ở và làm việc của tướng lĩnh trên chiến thuyền, tầng này ngăn thành mấy gian lớn, trang trí rất đẹp. Gian ngoài còn bày biện xa hoa hơn tầng trên, tuy về cơ bản đồ dùng cũng chẳng khác biệt gì mấy, hai người bèn đi thẳng vào gian trong cùng. Dương Hoài Ngọc vừa đẩy cửa, liền trông thấy trong đó có một người đang đứng, Vương Uy nhanh mắt nhanh tay, thầm nghĩ người trên chiến thuyền cổ mấy trăm năm tuổi chắc chắn chẳng phải hạng tử tế gì, bèn nhắm thẳng vào người kia, nổ liền hai phát súng. Dương Hoài Ngọc cũng tắt đèn pin, giơ súng liên thanh quét một tràng, phát nào cũng trúng mục tiêu, đạn ghim vào thân thể phầm phập. Vương Uy lách người tiến vào phòng, Dương Hoài Ngọc ở phía sau bật đèn pin soi, luồng sáng chói mắt rọi thẳng vào người kia, chỉ thấy kẻ đó đang quay lưng về phía hai người, mình vận chiếc áo dài có hoa văn kỳ lân mai hoa, đầu đội mũ cánh chuồn lụa đen. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, thì ra đó là một xác chết đã mấy trăm năm, hèn gì trúng nhiều đạn như vậy mà không chảy một giọt máu. Hai người đi vòng lên phái trước, thấy khuôn mặt cái xác đã khô hết nước, chỉ còn lại cái đầu lâu bọc da nhăn nheo, trông thật ghê sợ. Nhưng lạ lùng là, tại sao người này lại chết đứng? Nếu là người bình thường, dù đột tử do bệnh tim mạch chắc hẳn cũng sẽ ngã lăn ra chết, lẽ nào cái xác từ thời nhà Minh này vẫn đứng trong phòng suốt năm trăm năm qua? Chẳng phải quá ly kỳ sao? Hơn nữa, chiến thuyền cổ này đi dưới dòng sông ngầm năm trăm năm, biết bao nhiêu lần gặp gió mạnh, đụng vào bờ đê hay đá ngầm, hoặc rơi vào vùng nước xiết, khó tránh khỏi chao đảo, tại sao cái xác này vẫn đứng vững? Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều không hiểu, cả hai đi quanh quan sát cái xác vô số lần vẫn chẳng tìm được nguyên nhân, lòng vô cùng thắc mắc. Bỗng Vương Uy nói: – Cô Ngọc, cô có thấy tư thế đứng của người này giống hệt bức bích họa trong địa lao phủ bối lặc mà bác Tôn kể không? Dương Hoài Ngọc nhìn phía sau cái xác, nhớ lại bản sao của bức bích họa mà lão Tôn cho cô xem, toàn thân chợt toát mồ hôi lạnh. Nhìn sau lưng, cái xác này giống hệt vị quốc vương Lạp Cách Nhật trong tranh, dường như cũng đang đứng quay lưng về phía quần thần, nghe các quần thần báo cáo, thật khó hiểu. Không những tư thế, dáng vẻ, thần thái sống động giống hệt quốc vương Lạp Cách Nhật, mà thậm chí cả khí thế oai phong chấn nhiếp quần thần cũng như đúc một khuôn. Quốc vương Lạp Cách Nhật có liên quan gì đến chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên dòng sông ngầm này? Tại sao vị quan triều Minh này lúc chết lại giống quốc vương Lạp Cách Nhật đến vậy? Cánh tay cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc run run, Vương Uy cũng nhận thấy vẻ không ổn của cô ta. Đáp án đã rõ, vị quan triều Minh chết đứng này nhất định có mối quan hệ thần bí nào đó với vương triều Lạp Cách Nhật trong truyền thuyết. Vương Uy dời mắt khỏi cái xác, thấy gần đó có một chiếc bàn dài, bên trên đầy đủ bút giấy, nghiên mực. Một xấp giấy đã ố vàng chặn dưới nghiên mực, trên giấy viết đầy những chữ. Anh bất giác “ồ” lên một tiếng, lại gần bên bàn xem xét. Nghe Vương Uy buột miệng ồ lên, Dương Hoài Ngọc cũng sực tỉnh. Vương Uy cầm tệp giấy đã ố vàng lên, chỉ thấy chữ trên đó viết theo thể chữ khải, ghi lại toàn bộ những điều sâu xa, nét chữ đẹp mà không lả lướt, rắn rỏi mà nắn nót, có thể coi như hàng thượng phẩm trong thư pháp. Thuở nhỏ Vương Uy học thầy giáo riêng ở nhà, ông nội của anh từng mời một ông thầy nổi tiếng nhất kinh thành về dạy cho anh nên về thư pháp, Vương Uy khá có bài bản, cũng xem như có trình độ. Đọc xong mấy chục trang giấy ấy, Vương Uy sợ toát mồ hôi, lòng cũng trầm hẳn xuống, quả nhiên nơi đây là một thung lũng chết, hơn nữa còn là đất dữ trong phong thủy nghìn năm hiếm gặp. Đại ý nội dung trên giấy nói vị này là quan lớn nhất phẩm của triều Minh dưới thời Vạn Lịch, họ Trương, tên Tử Thông, tên chữ là Dữ Chi, về dòng dõi của ông ta, có thể truy nguyên về tận hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương, cụ tổ ông ta từng theo Chu Nguyên Chương dánh dẹp, giành được đến nửa giang sơn Đại Minh, về sau mới cởi giáp, từ bỏ binh quyền làm một quan văn. Từ đời cụ tổ trở đi, họ Trương đời đời đều có người làm quan lớn trong triều đình, trung lương chính trực, bản thân ông ta cũng đậu võ trạng nguyên vào năm Vạn Lịch thứ hai mươi mốt, có công dẹp loạn, được phong làm Trấn Đông đại tướng quân, hàm nhất phẩm. Vạn Lịch năm thứ ba mươi mốt, tức là mười năm sau, Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân bỗng lâm bệnh lạ, các vị ngự y trong triều dùng đủ mọi cách vẫn không chữa khỏi. Không còn cách nào khác, trong cung đành phải hạ thánh chỉ, chiêu mộ thần y trong thiên hạ để chữa khỏi bệnh cho hoàng đế. Lúc ấy, một vị lạt ma người Tạng vào cung, vừa thấy bệnh tình của hoàng đế, ông liền bảo sẽ chữa khỏi, rồi kê mấy phương thuốc lạ lùng, nào ngờ lại trị lành được cho Vạn Lịch Thần Tông hoàng đế. Hoàng đế khỏi bệnh, phong thưởng cho lạt ma không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, nhưng lạt ma nhất mực từ chối. Hoàng đế lấy làm lạ, nói rằng vị lạt ma là ân nhân cứu mạng của mình, bách tính thường dân còn biết đạo lý mang ơn phải báo đáp, thân là cửu ngũ chí tôn, càng phải làm gương cho thiên hạ. Vị lạt ma không từ chối nổi, đành yêu cầu nhà vua giúp ông ta làm một việc, còn ngọc ngà châu báu, quan to lộc lớn ông ta không hứng thú. Vị lạt ma lấy từ trong bọc ra một tấm bản đồ dơ dáy, đưa cho hoàng đế xem, rồi rỉ tai nói nhỏ mấy câu, Vạn Lịch hoàng đế lập tức biến sắc mặt, truyền lệnh bãi triều. Trương Tử Thông không biết vị lạt ma kia nói gì với hoàng đế, nhưng sau buổi chầu đó, Vạn Lịch hoàng đế liền mấy hôm không thượng triều, chỉ ở trong cung mật đàm với vị lạt ma Bốn ngày sau, Vạn Lịch hoàng đế ra một mật chỉ, phong cho Trương Tử Thông làm khâm sai đại thần, phái một nghìn ngự lâm quân cùng bốn nghìn quan quân Tứ Xuyên tiến vào Tây Tạng, dựng chùa ở phía Tây Nam, ban danh Phong Đô. Trương Tử Thông đem năm nghìn quân vào Tây Tạng, mất một tháng để xây chùa Phong Đô, sau đó dựa theo tấm bản đồ thần bí mà Vạn Lịch hoàng đế ban cho, tiến sâu vào vùng núi tuyết, thuận lợi tìm được hang động khổng lồ dưới lòng đất này. Trong triều, Trương Tử Thông được phong làm nhất phẩm đại thần, Trấn Đông đại tướng quân, nhưng thực tế ông ta còn có một thân phận đặc biệt khác, đây là bí mật mà trong triều ngoài nội không ai biết, chỉ trừ Vạn Lịch hoàng đế. Thân phận đặc biệt đó là Ngự Dụng quốc sư của Vạn Lịch hoàng đế, chuyên tìm long mạch, chọn huyệt vị, phân tích địa thế long mạch khắp thiên hạ. Trương Tử Thông tiến vào vùng núi tuyết, bị địa thế long mạch ở đây trấn trụ, chỉ thấy long mạch phía Nam bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế đi rất hiểm, đến núi tuyết Đường Cổ Lạp thì rơi vào vùng đất dữ kìm hãm long mạch nên bị vùi lấp dưới lòng đất. Mà hang động ngầm dưới đất này theo truyền thuyết lại đứng đầu trong số mười vạn thế đất hung hiểm, là Bối long âm khư, dương khí không vào được, âm khí không ra được. Kỳ dị hơn nữa là, tấm bản đồ vẽ đến đây thì bỏ trống quãng giữa, các phần sau không có liên hệ gì cả. Muốn hoàn thành mật lệnh của Vạn Lịch hoàng đế phải nghĩ cách phá được Bối long âm khư. Trương Tử Thông tụt xuống hang động ngầm, phát hiện ra dưới này là một biển nước mênh mông, tuyết từ trên núi chảy xuống ngập cả hang, nước sâu quá sức tưởng tượng. Quan trọng hơn, cái hang này vốn là đất chí âm, nước ngập cả đôi mắt rồng của Bối long âm khư, không thấy mắt rồng nghĩa là không có cách nào phá nổi tuyệt địa phong thủy Bối long âm khư. Trương Tử Thông cho năm nghìn quân đóng ở khe núi lớn rồi một mình xuống thám hiểm hang sâu. Hơn một tháng sau, qua nhiều lần cân nhắc, ông ta quyết định làm một việc kinh thiên động địa là ngăn nước chặn dòng, quây biển nước dưới lòng đất này lại, đắp một con đê lớn,tạo thành một bờ ngăn nước, để một phần âm khí chìm xuống đáy sâu, một phần ở trong không khí, hình thành địa thế âm dương phân cách. Bối long âm khư thuộc âm, một khi nằm giữa hồ nước sẽ biến thành vô hình, chỉ có rót dương khí vào mới có thể làm cho âm khư hiện hình. Trương Tử Thông chỉ huy năm nghìn người chặn đứng mấy đường thủy đạo chủ yếu chảy vào hang sâu, hao tốn năm năm xây lên một con đê lớn dài mười mấy cây số trong hang. Trong năm năm đó, tại hang này đã xảy ra nhiều sự việc khác thường, năm nghìn quân sĩ cũng hi sinh không ít, tổn thất rất nặng nề. Đắp xong con đê, để tiện qun sát toàn cảnh con sông ngầm, Trương Tử Thông lại ra lệnh đóng chiến thuyền cổ mười tám mái chèo này. Trong quân chẳng thiếu thợ khéo, họ nhanh chóng hoàn thành chiến thuyền, Trương Tử Thông chọn ngày hoàng đạo, thân chinh dẫn năm chục tướng sĩ dong thuyền thám hiểm sông ngầm. Trương Tử Thông từ nhỏ đã luyện được đôi mắt có thể nhìn thấu âm dương, trong thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư. Ông ta chỉ huy chiến thuyền tiến vào dòng sông ngầm, không khỏi kinh ngạc trước sự rộng lớn của thủy vực, thậm chí có thể coi nơi này là đại dương dưới lòng đất, hang động do con đê của ông ta vây lại tạo thành, chỉ bằng một góc so với thủy vực rộng lớn này thôi. Trong khi tuần tra thủy vực, Trương Tử Thông phát hiện thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư trên mặt nước, ông ta đã rất kích động, cho rằng biện pháp phân cách thủy vực âm dương của mình đã có hiệu quả, bèn thân chinh chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng kia. Bấy giờ Trương Tử Thông đã hoàn toàn rơi vào trạng thái điên cuồng, ông ta chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng của Bối long âm khư hơn một tháng mà chẳng thu được kết quả gì. Ngay sau đó lại xảy ra một sự việc nghiêm trọng hơn, tướng sĩ trên thuyền cứ lần lượt chết đi, hết người này tới người khác, khiến ông ta phải ra lệnh cho thuộc hạ điều tra rõ ngọn ngành. Nhưng bất kể Trương Tử Thông dùng cách nào đi nữa, người trên chiến thuyền vẫn cứ chết dần chết mòn, không cách gì ngăn nổi, quân sĩ trên thuyền chết đi, lại phải lấy thêm người trên bờ bổ sung. Cho đến một hôm, năm nghìn quân của Trương Tử Thông đưa đến chỉ còn lại năm mươi người cuối cùng trên thuyền, ông ta mới nhận ra thời gian của mình không còn nhiều, liền bắt tay ghi chép lại những gì đã trải qua dưới hang ngầm này. Ông ta giam mình trong phòng nghị sự, hằng ngày chỉ nghe phó tướng đến báo cáo có thêm bao nhiêu người chết, bỗng một hôm, ông ta phát hiện ra bí mật trong chuyện này. Thì ra trong số bọn họ có một thứ đang ẩn náu, ông ta không trông thấy, cũng không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định thứ đó đang trà trộn giữa bọn họ, bất cứ lúc nào cũng có thể âm thầm quan sát tất cả hành động của bọn họ. Ông ta có thể khẳng định rằng năm nghìn tướng sĩ do mình dẫn đến đây đều chết dưới tay thứ đó, nó giống như một con sói đói mai phục giữa đàn cừu, lần lượt ăn thịt hết cừu trong đàn vậy. Sau khi biết thứ đó tồn tại, Trương Tử Thông viết càng nhanh hơn, trước khi bị thứ đó giết hại, nhất định ông phải viết bằng hết mọi chuyện để lại cho người đời sau. Cho đến một hôm, viên phó tướng đến trước cửa phòng ông ta, đứng lặng ở cửa hồi lâu, không nói gì. Trương Tử Thông liền hỏi: – Có chuyện gì? Hôm nay chết mấy người? Viên phó tướng nói một câu ròi đi ngay: – Chỉ còn lại tôi và tướng quân. Nghe viên phó tướng nói, Trương Tử Thông đáp lại một tiếng “Biết rồi”, đoạn tiếp tục viết. Tiếng viên phó tướng xa dần về cuối hành lang, bỗng Trương Tử Thông nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu của viên phó tướng đã theo ông suốt mười năm trời. Đúng vậy, viên phó tướng cũng đã chết. Lúc ấy, ngoài cửa chợt vang lên tiếng chân lạ, mỗi lúc một tiến đến gần. Trương Tử Thông biết đã đến lượt mình, bèn từ từ đứng dậy, nghênh đón con quỷ giết người kia. Phá giải được bí mật của Bối long âm khư, Trương Tử Thông đã có thể lìa bỏ thế giới này, đi đối diện với con quỷ giết chết năm nghìn tướng sĩ của ông mà chẳng còn gì nuối tiếc nữa. Những trang viết đến đây thì dừng lại, mấy trang giấy sau đều để trắng khiến Vương Uy không khỏi rúng động. Ác quỷ đã giết hết năm nghìn tướng sĩ kia là thứ gì? Anh chợt nghĩ chẳng hiểu cái chết thảm thương của Ngoẹo và Ngọng trong quan tài đá treo trên những trụ đá dưới hang sâu kia có liên quan gì đến con quỷ này hay không? Dương Hoài Ngọc cũng cùng Vương Uy đọc xong tất cả các ghi chép, cô chỉ vào dòng cuối cùng nói: – Ông ta viết xong mấy dòng chữ này liền đứng dậy ngay, anh nhìn dáng vẻ ông ta hiện giờ xem, trông y như vừa rời ghế vậy. Vương Uy cũng để ý thấy điều này, nghĩ lại những ghi chép chân thực của Trương Tử Thông, da đầu anh bỗng tê đi, lẽ nào trên đời này thật sự tồn tại thứ gì đó mà mắt người không thể trông thấy? Nó ở ngay dưới hang sâu này, giết chết năm nghìn tướng sĩ nhà Minh, mà năm nghìn tướng sĩ thét ra lửa trên chiến trường ấy chỉ có thể trơ mắt chứng kiến bản thân bị giết như gia súc bị đưa vào lò mổ mà không có khả năng phản kháng, chết cho đến tận người cuối cùng, Đại tướng quân Trương Tử Thông. Phải chăng thứ đó là ma quỷ? Lòng Vương Uy tê dại hẳn đi, cảm thấy chuyện này quá sức kỳ lạ. Dương Hoài Ngọc chỉ vào xác Trương Tử Thông, nói: – Nhìn dáng vẻ ông ta này, vẻ mặt ông ta trước khi chết rất bình thản, như không phải bị giết mà tự nhiên đi vào cõi chết vậy. Vương Uy khẽ lẩm bẩm: – Thứ có thể lấy mạng người như vậy, rột cuộc là gì?p> Dương Hoài ngọc nói: – Chúng ta không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định, đó không phải là người. Đúng lúc đó, ở khoang dưới cùng vang lên tiếng kẹt cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt xông ra, ôm súng chạy xuống tầng dưới.p> Khoang thuyền phía dưới có một hành lang dài, hai bên hành lang là một dãy phòng, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc thận trọng đi dọc hành lang, tim như muốn thót lên đến cổ họng. Cả hai đều băn khoăn chẳng rõ đó có phải là tiếng của con quái vật đã giết chết năm nghìn quân Minh hay không? Trong khoang thuyền tĩnh lặng như chết, Dương Hoài Ngọc một tay cầm súng, một tay chiếu đèn pin vào từng góc hành lang. Mắt Vương Uy sáng trưng như điện, anh có thể khẳng định đây là giây phút căng thẳng nhất trong đời mình. Trước đây trên chiến trường, đối diện với kẻ địch dũng mãnh như hổ sói anh cũng chưa từng sợ hãi, nhưng lần này thì khác, kẻ địch của họ không phải là người, thậm chí rất có thể cũng không phải là thú dữ, mà là một thứ không trông thấy được, có thể khiến người ta phải giương mắt chứng kiến bản thân bị nó giết hại. Tiếng chân hai người vang vọng dọc hành lang, tiếng kẹt cửa kia chỉ vang lên một lần rồi tắt hẳn, nhưng Vương Uy và Dương Hoài ngọc rất nhạy cảm, đều cảm thấy vật kia như đang ở ngay bên cạnh, lén lút theo dõi họ ngay trong tầm mắt họ. Dương Hoài Ngọc cố nén sợ bảo Vương Uy: – Anh có để ý thấy không, ở đây ngay cả bóng dáng mấy tên lính mặc quân phục vàng cũng không có nữa? Nhưng bác Tôn lại bảo mình không nhìn nhầm, chắc chắn là chiếc thuyền này. Vương Uy nói: -Tôi nghĩ ra từ lâu rồi, bọn lính ấy rất có thể cũng như cha cô và đám lính nhà Thanh mà tôi thấy trong thung lũng vậy, họ không phải là người sống, con thuyền này là thuyền ma. Mấy câu này khiến Dương Hoài Ngọc lạnh toát cả sống lưng, cả người run rẩy, sự thực chứng minh, chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên con sông ngầm này hơn năm trăm năm nay đúng là một con thuyền ma. Dương Hoài Ngọc lạnh người, nói: – Chúng ta mau đi tiếp thôi. Vương Uy xua tay, nói: – Nếu hôm nay không kiểm tra rõ con thuyền này thì cả đời chúng ta không thể yên tâm nổi chứ đừng nói gì tìm ra bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật. Anh đến trước một cánh cửa, thình lình đá bật cửa ra, lao vào trong, Dương Hoài Ngọc cũng xông vào theo. Khoang thuyền này là nơi đặt mười tám mái chèo, mười tám mái chèo chia ra hai bên, mỗi bên chín mái, có mấy chiếc đang hoạt động. Vương Uy chỉ vào hai mái chèo. nói: – Cô xem, bụi bẩn trên hai mái chèo này đều bị lau sạch, trên thuyền chắc chắn có người sống. Dương Hoài ngọc soi đèn quan sát kỹ hai mái chèo, gật đầu: – Trên đó còn có dấu tay, khi nãy âm thanh kia vừa vang lên chúng ta đã lao xuống ngay, chắc chúng đang ở trong một phòng khác. Vương Uy gật đầu, hai người bèn trở ra ngoài, lần lượt đạp tung từng cánh của dọc hành lang, xông vào kiểm tra, nhưng không thấy bóng người nào cả. Ngay lúc ấy, phía trên hành lang đột nhiên lại vang lên tiếng ken két, có điều âm thanh này rất chói tai, không phải tiếng cửa gỗ. Vương Uy và Dương Hoài ngọc kinh hoàng thốt lên: – Hỏng rồi! Hai người chạy nhanh về đầu trên hành lang, nhưng hai cánh cửa sắt sừng sững đã nặng nề đóng lại, vào khoảnh khắc của sắt khép lại Vương Uy còn kịp nổ hai phát súng qua khe cửa, nhưng không có kết quả gì. Cửa sắt bị đóng chặt, tiếp đó nghe có tiếng khóa cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chỉ biết trơ mắt nhìn mình bị giam trên chiếc thuyền ma này, lòng trầm hẳn xuống. Trong lòng hai người có vô số nghi vấn, bên ngoài cánh cửa kia rốt cuộc là người hay ma? Nếu là người thì đó là ai? Lú người bước ra hành lang, họ đâu có ngờ hai cánh cửa sắt này chính là tử huyệt của khoang thuyền dưới cùng. Cánh cửa này đúc bằng sắt, súng bắn không thủng, một khi bị khóa lại, nếu không có người bên ngoài mở khóa thì không thể nào mở ra được. Dương Hoài Ngọc nói cách thiết kế này rất phổ biến trên những chiến thuyền cổ thời Minh, tầng dưới cùng là trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền, trong lúc tác chiến, phải đảm bảo an toàn cho trung tâm của các loại cơ quan trên thuyền cùng tất cả phu chèo thuyền. Hai cánh cửa sắt này có cả khóa trong khóa ngoài, chỉ cần khóa chặt một phía là không có cách nào mở ra nổi. Vương Uy quan sát kỹ cánh cửa sắt mấy lần, không ngờ ngay cả bản lề cũng đúc bằng sắt, đúng là không thể thoát khỏi hai cánh cửa này được. Cả hai đang mải chăm chú quan sát cánh cửa sắt, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:p> – Có người! Vương Uy nhìn về phía Dương Hoài Ngọc, thấy cô chiếu đèn pin vào một góc hành lang. Nhưng dưới ánh đèn pin loang loáng, phía cuối hành lang âm u chỉ thấy những cánh cửa gỗ đen kịt, cả hành lang bốc lên mùi ẩm mốc ngai ngái. Hai người cùng chĩa súng vào góc hành lang đó rồi từ từ đi vào bên trong, mùi ẩm mốc khiến mũi họ rất khó chịu, ngay cả hít thở cũng khó khăn. Bầu không khí tĩnh mịch vô bờ khiến tiếng chân của họ càng thêm vang vọng, như thể cứ bước chân một bước chân, tim lại nảy lên một nhịp. Bầu không khí này thật khiến người ta tuyệt vọng, họ kiểm tra khắp cả khoang thuyền, rõ ràng chẳng có bất cứ người nào cả. Ngay sau đó, họ lại nghĩ đến thung lũng tuyết, hang động ngầm nằm sâu dưới lòng đất hàng mấy trăm mét, chiến thuyền cổ thời Minh phiêu bạ







Game Hay Nhất
Bài viết đề xuất

Đọc truyện ma- Căn Phòng U Uất

Đọc truyện ma- Căn Phòng U Uất [PHẦN 1] Những dấu hiệu đầu tiên. Một ngày giữa ...

Truyện Ma

10:14 - 10/01/2016

Câu chuyện về chiếc lá hoàn hảo

Câu chuyện về chiếc lá hoàn hảoTrong cuộc đời mỗi con người là vô số sự lựa chọn....

Truyện Ngắn

08:04 - 23/12/2015

Người vợ tuyệt vời

Người vợ tuyệt vời Hai người bạn nói chuyện với nha...

Truyện Cười

20:28 - 26/12/2015

Chiên và ốp la

Chiên và ốp la Bà vợ đã cố hết sức làm vừa ý ch...

Truyện Cười

21:49 - 26/12/2015

Liên tưởng

Liên tưởng Trong giờ địa lý - Cô: Em hãy ch...

Truyện Cười

21:30 - 26/12/2015


The Soda Pop