an Nha San Lucar, đã kém may mắn va vào đá đằng kia. Một lô hàng chất lượng kém, tôi rất tiếc là phải nói thế. Những mẫu vật tồi tàn, quen ở trên boong tàu hơn ở trong rừng. Đại tá đưa tay lên, và Ivan, cũng là gia nhân, mang cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đậm ra. Rainsford phải cố gắng để không nói chuyện. - Đây chỉ là một trò chơi, ông hiểu cho, đại tá nói nhã nhặn. Tôi đề nghị một cuộc săn với một tên trong bọn chúng. Tôi cho nó lương thực và một con dao săn rất tốt. Tôi chấp nó ba giờ. Đã thoả thuận là tôi sẽ theo nó, với một khẩu súng cỡ nhỏ, tầm ngắn. Nếu con mồi của tôi thoát khỏi tôi trong ba ngày, thì nó chiến thắng. Nếu bị tôi tìm thấy… – đại tá nở một nụ cười – thì nó thua. - Còn nếu anh ta không chịu làm mồi săn? - Ồ! đại tá kêu, dĩ nhiên là tôi cho nó quyền lựa chọn. Nó không bắt buộc phải chơi, nếu không muốn. Nếu nó không muốn tham gia cuộc săn, thì tôi giao nó cho Ivan. Xưa kia, Ivan từng được vinh dự làm đao phủ roi da đúng chức vị của Nga hoàng Vĩ Đại, và Ivan có suy nghĩ riêng về cách giải trí. Luôn luôn, ông Rainsford à, luôn luôn chúng nó chọn cuộc săn. - Còn nếu họ thắng? Nụ cười trên gương mặt đại tá nở rộng hơn. - Cho đến ngày hôm nay, tôi chưa bị thua, đại tá nói. Rồi đại tá nói thêm ngay: - Tôi không muốn ông nghĩ tôi nói khoác, ông Rainsford à. Đa số bọn chúng chỉ gây ra vấn đề thuộc loại cơ bản nhất. Lâu lâu, tôi gặp được một con mồi săn tầm cỡ một chút. Có một tên xém thắng cuộc. Cuối cùng tôi buộc phải vận dụng lũ chó. - Lũ chó à? - Mời ông đi ngả này. Tôi sẽ cho ông xem. Đại tá dẫn Rainsford đến một cửa sổ. Đèn từ cửa sổ chiếu một thứ ánh sáng nhảy nhót tạo những hình bóng kỳ quặc trên nền sân phía dưới. Rainsford thấy ba bốn cái bóng đen to di chuyển. Khi chúng quay lên hướng Rainsford, mắt chúng sáng lên màu xanh lục. - Theo tôi nghĩ, đây là một đội quân cũng khá, đại tá nhận xét. Chúng được thả lúc bảy giờ mỗi tối. Nếu có ai toan lẻn vào nhà tôi, hoặc trốn ra, thì sẽ gặp những chuyện rất tệ hại. Đại tá hát lầm rầm một đoạn bài hát ở Folies-Bergères. - Và bây giờ, đại tá nói, tôi sẽ cho ông xem bộ SƯU tập những cái đầu mới của tôi. Xin mời ông đến thư phòng cùng tôi. - Tôi mong ông sẽ thứ lỗi cho tôi tối nay, thưa đại tá Zaroff, Rainsford nói. Tôi hoàn toàn không cảm thấy khoẻ. - À, thế à? – Đại tá ân cần hỏi thăm. Tôi nghĩ đó là điều không có gì bất bình thường cả; ông đã bơi lội nhiều quá mà. Ông cần ngủ một đêm cho ngon giấc để lấy lại sức. Tôi bảo đảm ngày mai ông sẽ thấy khác hẳn. Khi đó, ta sẽ đi săn nhé? Tôi có một kế hoạch khá hay… Rainsford vội vàng bước ra khỏi phòng. - Tôi rất tiếc ông không thể đi cùng tôi tối nay, – đại tá la với theo. Tôi hy vọng sẽ có một cuộc săn hấp dẫn: một thằng da đen to lớn, khoẻ mạnh. Trông nó rất lanh lợi. Vậy chúc ông ngủ ngon, ông Rainsford nhé. Hy vọng tối nay ông sẽ ngủ ngon. Giường ngủ rất êm, bộ áo ngủ bằng lụa mềm mại. Rainsford cảm thấy mệt mỏi trong từng sớ thịt trong cơ thể. Tuy nhiên, giấc ngủ không mang lại sự bình yên cho trí óc anh. Rainsford nằm trên giường, mắt mở to. Có một lần, Rainsford có cảm giác nghe tiếng chân bước rón rén ngoài hành lang, ngay bên ngoài phòng ngủ. Anh định mở cửa thật mạnh ra; nhưng nó không mở. Rainsford ra cửa sổ nhìn ra ngoài. Phòng anh nằm trên một tháp cao. Bây giờ đèn trong lâu đài đã tắt hết. Tất cả đều tối tăm và lặng lẽ; nhưng có một mảnh trăng vàng; ánh sáng mờ ảo cho phép thấy được sân. Những hình thù đen, lặng lẽ, lẻn vào dải tối rồi trở ra, liên tục. Lũ chó nghe thấy Rainsford và ngẩng đầu lên; ánh mắt xanh lục của chúng có vẻ chầu chực. Rainsford trở về giường, nằm xuống. Rainsford cố gắng thiếp ngủ bằng đủ mọi cách. Rainsford đã lim dim được một chút, lúc mặt trời bắt đầu ló ra, thì đột nhiên anh nghe tiếng súng khẽ, ngoài rừng. Đến lúc ăn trưa đại tá Zaroff mới xuất hiện. Đại tá mặc bộ complê vải tuýtxi, y như một nhà quý tộc ở quê. Đại tá hỏi thăm sức khoẻ Rainsford. - Còn tôi, đại tá thở dài, tôi cảm thấy không khoẻ lắm. Tôi lo lắm, ông Rainsford à. Tôi hôm qua, tôi bắt gặp trong mình các dấu hiệu của căn bệnh cũ. Khi thấy ánh mắt dò hỏi của Rainsford, đại tá trả lời: - Buồn chán; nỗi buồn chán. Rồi, sau khi lấy thêm bánh, đại tá giải thích: - Cuộc săn tối hôm qua không tốt lắm. Thằng đó bị hoảng lên. Nó chạy thẳng phía trước, trên một con đường hết sức dễ theo. Đó là sự phiền phức của bọn thủy thủ. Trí óc bọn chúng rất tồi tàn và chúng không biết định hướng trong rừng. Chúng làm những việc ngu ngốc quá hiển nhiên. Thật là chán chường. Tôi rót cho ông một ly rượu chát mới, ông Rainsford nhé? - Thưa đại tá, Rainsford nói bằng một giọng cương quyết, tôi muốn rời khỏi đảo này ngay. Đại tá giương đôi mày rậm lên. Trông đại tá có vẻ phật ý. - Nhưng thưa ông, đại tá nói, ông vừa mới đến mà. Ông chưa đi săn. - Tôi muốn ra đi ngay hôm nay, Rainsford nói. Rainsford thấy cặp mắt đen của đại tá dán vào mình; quan sát mình. Đột nhiên gương mặt đại tá Zaroff sáng lên. Đại tá rót cho Rainsford một ly rượu từ một cái chai bụi bậm. - Tối nay, đại tá nói, ông và tôi sẽ đi săn. Rainsford lắc đầu. - Không, thưa đại tá, Rainsford nói, tôi không muốn đi săn. Đại tá nhún vai rồi ăn nho trồng trong nhà kính. - Tùy ông thôi, ông bạn à, đại tá nói. Chính ông sẽ là người quyết định, một mình. Nhưng ông cho phép tôi gợi ý với ông rằng ông sẽ thấy quan niệm về săn bắn của tôi hấp dẫn hơn quan niệm của Ivan chứ? Đại tá hất đầu chỉ vào góc nơi tên khổng lồ đang đứng, hai tay khoanh trước cái ngực to như thùng phuy. - Chẳng lẽ đại tá nói rằng… Rainsford phản đối. - Ông bạn à, đại tá nói, tôi đã nói trước với ông rằng tôi không bao giờ nói đùa khi nói về săn bắn sao? Đúng là một cảm hứng. Tôi xin nâng ly chúc mừng một đối thủ chất lượng đáng so sánh với tôi, cuối cùng… Đại tá nâng ly lên, và Rainsford mở to mắt nhìn ông. - Ông sẽ thấy là trò này rất đáng chơi, đại tá hăng hái nói. Trí thông minh của ông chống lại trí thông minh của tôi. Kiến thức về rừng rậm của ông chống lại kiến thức tôi. Sức lực, sự dẻo dai của ông chống lại tôi. Một ván cờ vua ngoài trời! Và phần thưởng rất có giá trị, đúng không? - Còn nếu tôi thắng…? Rainsford bắt đầu nói bằng một giọng khàn khàn. - Tôi sẽ vui vẻ công nhận tôi thua cuộc nếu như, đúng mười hai giờ khuya, ngày thứ ba, tôi không tìm ra ông, đại tá Zaroff nói. Tàu của tôi sẽ đưa ông về đất liền, gần một thành phố. Đại tá đi guốc trong bụng Rainsford. - Ô! ông cứ tin tôi, đại tá nói. Tôi xin hứa lời danh dự quân tử và người săn. Dĩ nhiên là phần ông, ông phải hứa không được nói gì về chuyến thăm chỗ này. - Tôi sẽ không hứa gì cả, Rainsford nói. - À! đại tá kêu, nếu vậy… nhưng cần gì thảo luận ngay bây giờ? Trong ba ngày nữa ta sẽ bàn chuyện này bên chai sâm banh Veuve Cliquot, trừ phi… Đại tá đang nhấm nháp rượu. Rồi tự nhiên đại tá sốt sắng lên và nói với Rainsford như một doanh nhân lanh lợi: - Ivan sẽ cung cấp cho ông trang phục đi săn, lương thực, dao. Tôi khuyên ông nên đi giày mọi; dấu vết để lại nhẹ hơn. Tôi cũng khuyên ông nên tránh khu đầm lầy lớn ở góc đông – nam hòn đảo. Chúng tôi gọi nó là Đầm lầy Chết chóc. Ở đó có những chỗ cát lún thụt. Một thằng ngu ngốc đã thử mạo hiểm vào đó. Chuyện tồi tệ nhất là con Lazarus đi theo nó. Ông dễ dàng đoán cảm xúc của tôi, ông Rainsford à. Tôi rất thương con Lazarus, con chó đẹp nhất bầy. Nhưng bây giờ tôi xin lỗi ông. Tôi luôn ngủ trưa sau bữa ăn. E rằng ông chỉ kịp ngủ một giấc ngắn thôi. Có lẽ ông sẽ đòi đi ngay. Tôi sẽ không lần theo ông trước hoàng hôn. Cuộc săn giàu cảm xúc vào ban đêm hơn ban ngày, ông có nghĩ thế không? Tạm biệt, ông Rainsford, tạm biệt. Đại tá Zaroff chậm rãi rời khỏi phòng ăn, cúi chào lịch thiệp. Ivan bước vào bằng một cửa khác. Ivan đang cầm trong một tay bộ trang phục đi săn bằng kaki, một bị lương thực, một bao da chứa con dao săn lưỡi rất dài; tay kia Ivan đặt trên một khẩu súng lục đã lên cò sẵn và nhét trong sợi dây nịt đỏ cột quanh eo… Suốt hai tiếng, Rainsford cực nhọc tìm đường qua rừng rậm. “Phải giữ bình tĩnh; phải giữ bình tĩnh”, Rainsford cắn chặt răng tự nhủ. Rainsford đã bị cuống lên khi cổng lâu đài khép lại phía sau lưng anh với tiếng kêu rắc. Thoạt đầu, Rainsford chỉ có một ý nghĩ: tạo khoảng cách giữa mình và đại tá Zaroff. Anh đã đâm thẳng phía trước mặt mà chạy, với một cảm xúc rất gần như hoảng hốt. Nhưng bây giờ anh đã bình tĩnh hơn, anh dừng lại, suy nghĩ và đánh giá tình thế. Rainsford hiểu ra rằng chạy trốn theo đường thẳng là ngốc nghếch, việc này chắc chắn sẽ dẫn anh ra biển. Anh bị kẹt trong một cái khung có nước bao quanh, và dĩ nhiên mọi chuyển động của anh phải nằm trong cái khung này. - Mình phải tạo cho hắn dấu vết để mà theo, Rainsford nói khẽ. Rainsford rời bỏ con đường đang theo để đâm vào rừng rậm không có đường mòn. Anh đi những vòng khép kín phức tạp, và nhiều lần bước trở lui theo dấu chân vừa mới đi, cố nhớ lại tất cả những gì đã ghi nhận về cuộc săn cáo và mưu mẹo của con cáo. Đến đêm, anh dừng trên một ụ đất nhô có cây mọc sát nhau, tay chân và mặt mày bị cành cây cào xước. Rainsford thừa biết đi mò trong đêm là chuyện điên rồ, giả sử anh còn sức. Anh đang cần nghỉ ngơi. Rainsford nghĩ bụng: “Mình đã đóng vai con cáo rồi; bây giờ mình phải làm con mèo trong truyện ngụ ngôn.” Ngay đó có một cây thân to, cành xoè; Rainsford cẩn thận không để lại dấu vết, leo lên chạc cây, rồi nằm trên một cành to. Nghỉ ngơi khiến Rainsford tự tin lại; anh cảm thấy gần như an toàn. Một người săn, cho dù có hăng say như đại tá Zaroff cũng không thể tìm ra anh, Rainsford tự nhủ như vậy; vào ban đêm, chỉ có quỷ mới đi theo dấu vết rối rắm như thế xuyên qua rừng nổi. Nhưng có thể đại tá Zaroff chính là quỷ. Ban đêm kéo dài, bất tận, đầy đe doạ, như một con rắn bị thương. Giấc ngủ không đến với Rainsford, mặc dù sự im lặng của một thế giới chết ngự trị trên khu rừng rậm. Đến sáng, khi bầu trời nhuộm màu xám chì, tiếng một con chim giật mình kêu lên khiến Rainsford chú ý đến hướng đó. Một cái gì đó đang tiến tới, xuyên qua bụi rậm, tiến tới chậm chạp, thận trọng, tiến qua chính lối đi mà Rainsford đã đi. Rainsford nằm thật sát vào cành cây và rình rập xuyên qua lá cây dày như tấm rèm. Vật đang tiến đến gần anh là một con người. Chính là đại tá Zaroff. Đại tá tiến tới, mắt nhìn chằm chằm xuống đất, tập trung tột độ. Đại tá dừng lại, gần như ngay dưới cây, quỳ xuống xem xét nền đất. Phản ứng đầu tiên của Rainsford là muốn nhảy xuống đất, như một con beo, nhưng anh nhìn thấy một vật kim loại nhỏ trong tay phải của đại tá; khẩu súng lục tự động. Người đi săn lắc đầu nhiều lần, như thể không hiểu nổi. Rồi đứng dậy, rút ra khỏi bao thuốc một điếu thuốc lá đen. Khói cay bay lên đến mũi Rainsford. Anh nín thở. Ánh nhìn của đại tá đã rời khỏi mặt đất và đang đi lên, từng phân một, dọc theo thân cây. Rainsford nằm yên trên đó, mọi cơ bắp căng ra đề phòng. Nhưng kẻ đi săn dừng mắt trước khi đến cành cây nơi Rainsford đang nằm. Một nụ cười hiện trên gương mắt rám nắng của đại tá. Với sự chậm rãi tính toán, đại tá phà lên không khí một vòng khói tròn, rồi quay lưng lại với cây, ung dung bỏ đi, theo lối đi cũ mà đại tá đã đến. Tiếng ủng cạ vào bụi cây kêu sột soạt khẽ dần. Phổi Rainsford phì ra một lần lượng khí nóng kẹt trong đó. Ngay khi lấy lại được khả năng suy nghĩ, Rainsford cảm thấy choáng váng và ê ẩm. Đại tá có thể theo được dấu chân vào ban đêm, xuyên qua rừng. Đại tá có thể theo một dấu vết rất phức tạp; có lẽ đại tá có năng khiếu siêu tự nhiên. Đại tá đã suýt phát hiện con mồi. Suy nghĩ thứ nhì của Rainsford càng khủng khiếp hơn nữa và khiến anh rùng mình với cảm giác lạnh xương sống. Rainsford không chịu tin điều mà lý trí anh mách bảo, nhưng sự thật hiển nhiên như tia nắng mặt trời đang chiếu qua sương mù ban mai. Đại tá đang đùa giỡn với anh! Đại tá tha cho anh để kéo dài trò chơi thêm một ngày nữa! Đại tá là con mèo, Rainsford là con chuột. Chính vào lúc đó, Rainsford cảm nhận được thế nào là nỗi khiếp sợ. - Mình không muốn mất bình tĩnh. Mình không muốn mất bình tĩnh. Rainsford thả mình trở xuống đất, rồi bỏ đi vào rừng. Nét mặt căng thẳng, anh buộc đầu óc phải làm việc. Đi xa được cách chỗ trốn khoảng ba trăm mét, Rainsford dừng ở chỗ khối to của một cây chết tựa mong manh vào một cây khác còn sống và nhỏ hơn. Rainsford bỏ bị lương thực xuống, rút dao ra khỏi bao rồi tập trung hết năng lực bắt tay vào việc. Khi làm xong, Rainsford thả mình sau một khúc cành rơi cách đó khoảng một trăm mét. Rainsford không phải chờ lâu. Mèo trở lại tìm chuột để giỡn. Đại tá Zaroff đang đến, lần theo dấu chân chắc chắn như một thám tử. Không có gì thoát khỏi đôi mắt đen của đại tá, không một chiếc lá bị chà đạp nào, không một cành cây cong, không một dấu chân trên rêu, dù nhẹ đến mấy. Hắn quá tập trung đi theo dấu chân đến nỗi đụng phải cái mà Rainsford đã bố trí trước khi kịp nhìn thấy. Chân đại tá chạm cành cây nhô ra đóng vai trò cò súng. Đúng lúc chạm vào đó, đại tá cảm nhận được nguy hiểm và nhảy lùi ra phía sau khéo léo như một con khỉ. Nhưng đại tá không đủ nhanh; cây chết, tựa nhẹ trên cây sống, mà Rainsford đã chặt, sụp đổ xuống thật mạnh và trúng đại tá, trượt dọc theo vai đại tá. Nếu không phản xạ nhanh, thì chắc chắn đại tá đã bị đè bẹp dưới khối cây. Đại tá choáng váng, nhưng không ngã và không thả súng. Đại tá đứng đó bất động, xoa cái vai bị trúng. Rainsford lại bị nỗi sợ dày vò khi nghe tiếng cười chế giễu của đại tá vang lên trong rừng. - Rainsford ơi, đại tá la lên, nếu ông ở tầm nghe, như tôi đoán, thì xin cho tôi có lời khen. Rất ít người biết làm một cái bẫy người như ở Mã Lai. Cũng may cho tôi, tôi từng đi săn ở bán đảo Malacca. Ông là người rất thú vị, ông Rainsford à. Bây giờ tôi sẽ đi băng bó vết thương. Chỉ bị thương nhẹ thôi mà. Rồi tôi sẽ quay lại, tôi sẽ quay lại. Khi đại tá, đang xoa cái vai đau, đã đi xa rồi, Rainsford tiếp tục chạy trốn. Bây giờ đúng là một cuộc tháo chạy, một cuộc tháo chạy dữ dội, điên cuồng, suốt mấy tiếng đồng hồ. Hoàng hôn xuống, rồi màn đêm, nhưng Rainsford vẫn tiến tới với cùng tốc độ. Nền đất mềm hơn dưới giày mọi của anh: cây cối rậm rạp um tùm hơn; côn trùng tấn công để đốt anh. Khi tiến tới, chân anh lún xuống bùn. Rainsford cố rút ra, nhưng bùn lầy cứ hút chân anh thật mạnh, như một con đỉa to tướng. Chỉ bằng nỗ lực rất lớn, Rainsford mới kéo cái chân ra được. Bây giờ Rainsford đã biết mình đang ở đâu: Đầm Lầy Chết Chóc và vùng cát lún. Rainsford nắm chặt hai tay cứng ngắc, như thể sự bình tĩnh của anh là một cái gì đó hữu hình đang bị một kẻ nào đó trong bóng tối toan giật lấy khỏi tay anh. Nền đất mềm nhũn làm anh nảy ra một ý. Rainsford lùi xa khoảng vùng cát lún khoảng một chục mét rồi tiến hành lục soát, y như một con hải ly thời tiền sử khổng lồ. Hồi thời chiến, Rainsford từng đào chỗ trú cho mình ở Pháp khi mà mỗi giây trễ nãi có thể gây ra cái chết. Lúc đó chỉ là một trò giải trí bình yên so với việc anh đang làm bây giờ. Hố trở nên sâu hơn. Khi miệng hố cao hơn vai, Rainsford bước ra, chặt vài cây nhỏ cứng chắc, gọt đầu cho nhọn làm thành chông. Anh cắm dưới hố, mũi nhọn hướng lên trên. Bằng ngón tay nhanh nhẹn như bay, Rainsford dệt một tấm thảm thô sơ bằng cỏ và cành cây, che lại miệng hố. Rồi ướt đẫm mồ hôi, người ê ẩm do mệt mỏi, Rainsford núp sau gốc cây bị sét làm cháy. Rainsford biết kẻ truy lùng mình đang rất gần. Anh nghe tiếng chân bước trên nền đất mềm. Gió đêm mang đến cho anh mùi thuốc lá của đại tá. Rainsford có cảm giác đối thủ đang tiến tới với độ nhanh bất bình thường. Không mò mẫm, từng bước một. Từ chỗ núp, Rainsford không thể nhìn thấy đại tá và cái bẫy. Trong vòng một phút, Rainsford như sống qua một năm trời. Rồi anh muốn hét lên vui mừng khi nghe tiếng cành cây kêu rắc lúc nắp bẫy vỡ ra. Rồi có tiếng thét đau đớn khi chông nhọn có tác dụng. Khi đó Rainsford lao ra khỏi chỗ núp, rồi kinh hoàng lùi lại. - Công việc xuất sắc, ông Rainsford à, giọng nói của đại tá la đến. Cái bẫy cọp kiểu Miến Điện của ông đã làm mất mạng con chó giỏi nhất của tôi. Ông lại ghi thêm được một điểm. Để tôi xem ông làm gì được chống lại cả bầy chó săn. Bây giờ tôi về nhà nghỉ đây. Cám ơn ông về buổi tối vui thích này. Lúc rạng sáng, Rainsford, đang nằm gần đầm lầy, bị đánh thức bởi một tiếng động khiến anh hiểu ra mình chưa biết hết về nỗi sợ hãi. Tiếng động xa, yếu và không rõ ấy, Rainsford đã nhận ra: tiếng sủa của bầy chó săn. Rainsford biết rằng có thể có hai quyết định. Ở lại tại chỗ và chờ đợi, tương đương với tự sát. Bỏ chạy, là chỉ đẩy lùi việc tất yếu phải xảy ra. Rainsford ở lại đó suy nghĩ một hồi. Một ý nghĩ nảy vào đầu anh, dường như có bóng dáng cơ may bay thoáng qua. Anh siết chặt dây nịt, đi về hướng ngược lại với đầm lầy. Tiếng sủa của bầy chó săn nghe gần lại; gần hơn, càng lúc càng gần lại, luôn luôn gần lại dần. Rainsford trèo lên cây trên một đồi nhỏ. Cách đó khoảng nửa cây số, Rainsford thấy bụi cây động đậy. Ánh mắt căng thẳng của Rainsford nhìn thấy hình bóng gầy của đại tá Zaroff. Ngay phía trước đại tá, Rainsford thấy một hình bóng khác có đôi vai vuông vức nhô ra khỏi cỏ cao. Đó là Ivan, tên khổng lồ. Trông hắn như bị một lực vô hình kéo về phía trước. Rainsford suy ra hắn đang cầm dây dắt bày chó săn. Chẳng bao lâu bọn chúng sẽ đến chỗ Rainsford. Trí óc Rainsford hoạt động rất nhanh. Và anh nhớ đến một cái mẹo mà dân bản xứ ở Ouganda đã chỉ cho anh. Rainsford trượt xuống đất, chụp lấy một cây con mềm dẻo, cột con dao vào đó, lưỡi dao hướng ra con đường mòn. Anh dùng cọng cây nho dại, bẻ và cột cây con lại. Rồi Rainsford chạy hết sức mình. Tiếng bày chó săn tăng lên khi chúng phát hiện dấu vết mới mẻ. Bây giờ Rainsford đã biết một con thú bị dồn đến bước đường cùng cảm thấy như thế nào. Rainsford phải dừng lại để thở. Tiếng chó sủa chấm dứt đột ngột và tim của Rainsford cũng dừng theo. Có lẽ bọn chúng đã đến chỗ con dao. Rainsford leo lên cây, nhìn lại phía sau. Bọn rượt theo anh đã đứng lại. Nhưng tia hy vọng len trong lòng Rainsford khi leo lên cây lại tan biến. Trong thung lũng không sâu, Rainsford thấy đại tá Zaroff vẫn đứng đó. Nhưng Ivan đã biến mất. Con dao, bắn ra nhờ kéo cây con, đã không phải không trúng đích. Rainsford chỉ vừa kịp thả mình trở xuống đất, thì tiếng sủa vang lên tiếp. - Bình tĩnh! Bình tĩnh! Bình tĩnh! Rainsford hổn hển đâm thẳng về phía trước. Bày chó săn vẫn cứ tiến lại gần. Rainsford chạy ra chỗ trống. Anh ra đến đó. Bờ biển. Phía bên kia vịnh, Rainsford nhìn thấy lâu đài đá xám rùng rợn. Không đầy ba mét phía dưới, sóng biển kêu rít và gầm gừ. Rainsford lưỡng lự. Anh nghe tiếng bày chó săn. Khi đó, Rainsford nhào xuống biển, thật xa. Khi đại tá và đàn chó săn đến chỗ Rainsford đã nhảy xuống biển, đại tá dừng lại. Đại tá đứng đó nhìn suốt vài phút, quan sát biển xanh mênh mông. Rồi đại tá nhúng vai, ngồi xuống, uống hớp cognac trong cái chai bạc, châm điếu thuốc thơm, hát lầm rầm một điệu nhạc mà ông ưa thích. Tối hôm đó, đại tá Zaroff ăn một bữa tối ngon lành trong phòng ăn có lợp gỗ ở tường. Có hai bóng tối khiến niềm vui của đại tá không được hoàn hảo: ý nghĩ rằng sẽ khó tìm người thay Ivan và ý nghĩ rằng con mồi đã thoát. Dĩ nhiên, tay người Mỹ này không chơi đúng luật, đại tá vừa nghĩ vừa uống rượu giúp tiêu hoá. Trong thư phòng, đại tá ngồi đọc những đoạn Marc- Aurèle để tự an ủi. Lúc mười giờ, ông lên phòng ngủ. Đại tá cảm thấy mệt mỏi một cách thích thú, rồi khoá cửa phòng lại. Ngoài trời có chút ánh trăng. Trước khi bật đèn lên, ông ra cửa sổ nhìn xuống sân, thấy bầy chó săn to rồi la với chúng: - Lần sau tụi mày sẽ may mắn hơn. Rồi đại tá bật đèn lên. Một người đàn ông đã núp sau rèm cửa sổ, và đang đứng đó. - Rainsford! đại tá hét lên. Làm thế nào anh lên được đến đây? - Bơi, Rainsford trả lời. Tôi thấy bơi nhanh hơn đi bộ qua rừng. Đại tá hít thật sâu, rồi mỉm cười. - Chúc mừng ông, đại tá nói. Ông đã chiến thắng. Rainsford không mỉm cười. - Tôi vẫn còn là một con thú bị dồn đến bước đường cùng, Rainsford nói bằng một giọng khàn và trầm. Đại tá Zaroff, đại tá chuẩn bị đi. Đại tá cúi chào thật thấp. - Tôi hiểu rồi, đại tá nói. Tuyệt! Một trong hai ta sẽ làm bữa ăn cho bày chó săn. Người kia sẽ được ngủ trong cái giường êm ấm này. Chuẩn bị đấu đi, Rainsford à. “Mình chưa bao giờ được ngủ trong một cái giường êm như thế này”, Rainsford nghĩ bụng.