i không ra tay được. Họ lại càng hận anh lắm, anh biết không! Văn thở dài: – Tôi biết và nỗi ăn năn lâu nay đã gặm nhấm lòng tôi khôn nguôi. Tôi không ân hận gì nếu bị họ giết chết! Xuân Lan nghiêm giọng: – Không được, anh phải sống vì con anh chứ! – Nhưng… Văn muốn nói thật đứa bé không phải là dòng máu của mình, nhưng kịp nghĩ lại, anh lảng sang hướng khác: – Tôi ngạc nhiên không hiểu sao hai mẹ con họ lại không chôn chung một nơi ở Ô Môn mà hai người hai nơi như thế này? Lan thở dài: – Cũng do ba em, Ông ấy và Ngọc Mai không thuận với nhau lúc còn sống, đến khi chết họ cũng thề không nằm gần nhau. Ba em có một lời nguyền khi nhắm mắt, không ngờ lời nguyền đó đã linh ứng sau này, và cũng bởi vì lời nguyền nên Ngọc Mai không thể tự tiện tới vùng đất này để ra tay hại anh. Đây nè, em cho anh coi lời nguyền… Xuân Lan đi vào góc nhà tìm một lúc, rồi lo lắng nói: – Em bỏ quên cái túi xách ở đâu mất rồi, trong túi có vật ấy… Văn đưa chiếc túi vải đang cầm trên tay ra: – Phải cái này không? Xuân Lan mừng rỡ: – Đúng rồi! Cô cầm lấy tấm ảnh chụp chung ra, chỉ tay vào người đàn ông trong ảnh. – Đây là ba em. Lúc tấm hình này chụp thì không có ông, bởi ông đã chết trước đó mấy năm rồi. Nhưng khi biết mẹ con bà Thảnh muốn dùng em để hại người, đó là hại anh, thì ông đã linh ứng, đưa hình ông ghép vào trong này, để ngăn chặn không cho họ làm hại em nếu sau này em bị họ ép đến đường cùng. Anh có thấy dòng chữ viết phía sau ảnh này không? Sinh Ô Môn, tử Giang Thành! Đó chính là lời nguyền của ba, ý ông muốn nói là bà Thảnh sinh ra ở Ô Môn, nhưng khi chết thì chôn ở Hà Tiên này. Mà có như vậy thì sinh mạng em sẽ không sao, bởi khi bà ấy nằm ở đây thì còn có ba em, sẽ không để làm hại em được! Chính vì vậy mà em mới giữ bé Ngà ở đây để nuôi, cho nó được yên ổn. Vậy mà chỉ vì muốn ngăn chặn không cho họ hại anh, để rồi con bé phải mạng vong như thế này, Tội cho nó.. . Nghe kể chuyện, Văn sững sờ, anh gào lên: – Có muốn giết thì cứ giết tôi, cớ sao lại hại con bé mới ngần này tuổi! Văn ôm con bé và chạy thẳng ra chỗ hai ngôi mộ rồi bằng một động tác bất ngờ, anh lao đầu vào mộ bia của bà Thảnh. Sức lao khá mạnh, nếu trúng vào thì có thể vỡ đầu. Đó là một hành động tự sát mà chính Văn cũng chẳng hiểu tại sao mình làm vậy! Xuân Lan chạy ra sau, cô vừa kịp nhìn thấy đã la lên: – Đừng! Anh đừng… Tuy nhiên, khi đầu của Văn va vào thành mộ bia thì như có một cái đệm êm ái đỡ lấy, khiến anh chỉ bị ngã mà không bị thương tích gì. Vừa khi ấy, Văn chợt nghe có tiếng thì thào: – Con không sao, ba ơi! Văn bật ngay dậy và mừng như bắt được vàng: – Ngọc Ngà, con còn sống sao? Con bé Ngà ôm chầm lấy Văn như nó vẫn thường làm, hơi ấm từ người nó làm cho Văn nhẹ hẳn đi, anh nói và khóc: – Cử tưởng con bỏ ba rồi… Xuân Lan chạy tới, cô mừng không kém: – Mẹ cứ tưởng con không thương mẹ nữa chứ! Không hẹn mà cả Văn và Xuân Lan đều ôm chầm lấy bé Ngà, chẳng khác gì cặp vợ chồng đang âu yếm đứa con cưng! Và họ giữ như vậy khá lâu… Chẳng hiểu có sợi dây vô tình nào đó đã cột chặt họ lại với nhau, nên sau phút bất chợt đó, họ đã nhìn nhau với ánh mắt đầy cảm thông, trìu mến. Rồi Xuân Lan lên tiếng: Vừa rồi vong hồn cửa ba đã đỡ cho anh không va đầu vào mộ bia đó! Ba không muốn anh chết, bởi trên đời này còn có đứa con gái bé bỏng của ba đang bơ vơ! Văn bất chợt siết chặt tay nàng, nói khẽ vừa đủ cho nhau nghe: – Em sẽ không bơ vơ nữa… Con bé Ngà vội chen vào: – Còn bỏ con cho ai? Văn siết chặt nó vào lòng: – Có ba, mẹ đây chi! Họ tràn ngập trong niềm hạnh phúc tuy bất ngờ, nhưng đó là điều tất yếu… Văn cứ sợ bé Ngà không thể sống lâu, bởi người ta nói thường những đứa bé nửa âm nửa dương như Ngà thì chỉ thọ được cao lắm là tới mười tuổi. Vậy mà đã mười bốn năm trôi qua, bây giờ Ngọc Ngà đã đến tuổi mười bảy, mà chẳng có dấu hiệu gì cho thấy cô bé yểu mệnh Văn vừa mừng vừa lo, anh bàn với vợ: Anh nghe người ta nói, nếu Ngà vừa qua tuổi mười bảy, bước sang tuổi mười tám mà vẫn chưa có gì xảy ra thì phải làm lễ cúng thật lớn để rửa vong cho nó! Vậy chúng ta nên chuẩn bị là vừa, bởi chỉ còn chưa đầy mười ngày nữa là Ngà qua tuổi mười tám! Xuân Lan kề sát vào chồng, thì thầm: – Em đã lo cả tồi, mà anh cũng yên tâm, mấy đêm liền ba đều hiện về báo cho em biết rằng cái vận yểu mệnh của dòng họ chị Ngọc Mai đã qua và bé Ngà cũng chính thức được tồn tại trên cõi trần này rồi. Lúc ấy Ngọc Ngà vừa từ dưới bếp bước lên, thấy cha mẹ bàn bạc, cô nói: – Bữa nay con đãi ba má món cá trê chiên chấm nước mắm gừng, món ruột của hai ông bà! Văn nhẹ cười với con gái: – Chỉ sợ quả bom nổ chậm này không còn bao lâu nữa để cho tôi với má nó hưởng cái thú ăn ngon này nữa đây! Con gái là con nhà người ta mà. Ngọc Nga giãy nảy: – Không, con không lấy chồng đâu, con ở mãi với ba má thôi. Và cũng như hồi nhỏ, Ngà vẫn còn thói quen cứ sà vào lòng cha mà giữ chặt: – Con không bao giờ rời xa ba má! – Con khỉ, nói phải giữ lời đó nghen! Không ai lột da mà sống mãi, nhưng có lẽ hạnh phúc mà họ đang được hưởng là bất tận… Chương 9: Tiếng Hú Rừng Tràm Mùa nước nổi… Con kinh Xáng chảy từ Sông cái Mỹ Văn xuyên qua Mỹ Hiệp Sơn cho tới tận đầu kinh Bảy Nam Thái Sơn năm nào cũng vậy, hễ mùa khô thì nước cạn tới đáy, còn mùa nước nổi thì nước ngập tràn đồng, không còn phân biệt được đâu là sông, đâu là bờ. Đôi vợ chống trẻ Ba Tài và My Lệ nghĩ nước tràn sông sẽ dễ đi, nên mãi tới gần hai giờ chiều họ mới rời kinh Bảy để đi về Mỹ Hiệp Sơn. Con kinh Xáng vốn quá quen thuộc với họ, nên dù đoạn giữa khá vắng, nhưng Ba Tài vẫn tự tin nói với vợ: – Em coi chừng nào cơm chín, mình dừng lại chỗ có hàng tràm gie ra sông để nghỉ. Ăn tối mình đi thì khoảng bảy giờ là tới Vọng Thê, như vậy đêm nay mình đã có mặt ở nhà, chấm dứt một tháng trời lênh đênh sông nước! Mỹ Lệ thở dài: – Buôn bán kiểu này chắc lần sau em xá dài, không bao giờ dám đi bán hàng nữa! Cũng may là sáng nay bán được cho tiệm tạp hoá ở chợ Nam Thái Sơn số xoài còn lại, chứ nếu không thì có nước đổ xuống sông? Cuộc chuyện trò của vợ chồng họ được một lúc thì đã tới khúc giữa của con kinh, nơi đã vài lần Ba Tài cho ghe dừng lại nghỉ ngơi. Lần này vừa nhìn thấy đám khói bốc lên từ chỗ đó, anh tắc lưỡi: – Có người chiếm chỗ trước mình rồi! Lệ thì lại thích: – Có thêm người đậu lại vui hơn! Em đã ngán cảnh phải thui thủi đậu ghe ở bến vắng lắm rồi! Ba Tài cho ghe tấp lại chỗ hàng tràm quen thuộc. Tưởng là có ghe khác. nào ngờ khi đậu lại mới hay khói bốc lên từ một con cúi rơm do ai đó bỏ lại lúc nấu nướng xong. Rơm đang cháy sém vào thân cây tràm lớn. Ba Tài càu nhàu: – Để lửa kiểu này gặp mùa khô nó cháy hết rừng chứ chẳng phải chơi! Anh định khoát nước dập tắt lửa, nhưng Lệ đã ngăn lại: – Để đớ em nhúm lửa, khỏi phải quẹt hao đá lửa! Vợ chồng họ bắt đầu bữa cơm chiều khá sớm và nhanh chóng. Ăn vừa xong, Lệ đã giục chồng: – Đi về cho sớm, trời chuyển mưa rồi kìa? Nghe vợ nói có lý nên Ba Tài vội nhổ sào sửa soạn lui ghe. Nhưng thật bất ngờ, cơn mưa đổ như trút nước ngay khi trời còn quang! Lệ hốt hoảng: – Kiếm chỗ có nhà trú đở đi anh! Ba Tài nhìn chung quanh rồi thất vọng: – Cách đây cả cây số mới có nhà, bây giờ mưa quá lớn đâu đi được Họ đành phải cộ dây ghe vào gốc tràm chịu trận. Ba Tài trấn an vợ: – Mưa kiểu này sẽ không dai đâu, ráng chịu một chút là tạnh thôi! Và họ cắn răng chịu đựng. Cứ ngỡ cơn mưa rào sẽ qua mau. Nhưng họ không thể ngờ được tình huống tồi tệ nhất mà họ phải trải qua sau đó… Cơn mưa càng lúc cáng lớn, giông gió nổi lên mạnh chưa từng thấy. Mùa nước nổi mà mưa giông thế này đúng là bi kịch cho những người đi xuồng ghe. Ba Tài đã quen sông nước, dãi dầu mưa nắng nhiều, vậy mà một lúc sau anh bắt đầu lo. Chiếc ghe năm trăm giạ của anh thường chở cả mấy tấn hàng, nay lại là ghe trống nữa, nên không sợ chìm vì nước mưa, nhưng lúc ấy Lệ lại gào lên khi phát hiện nước tràn quá nhiều tát không kịp: Nước phía sau nhiều lắm, anh tiếp em tát ra kẻo chìm ghe, Lệ la lạc cả giọng, nhưng lúc đó Ba Tài còn phải lo ghì dây cột, cố giữ cho chiếc ghe không bị trôi theo cơn gió mỗi lúc một lớn hơn! Đến một lúc, giọng của Lệ hầu như không còn phát ra được nữa. Phần do đã la quá nhiều nãy giờ nên giọng không còn nghe rõ được, phần nữa là âm thanh của con người đều bị át đi bớt tiếng gầm rú của giông bão. – Ghe sắp chìm rồi! Đó là câu nói cuối cùng của Lệ mà Ba Tài con nghe tiếng được tiếng mất trong màn mưa, để tới sau đó họ hầu như không liên lạc được với nhau mặc dù chỉ đứng cách nhau chưa đấy mười thước. Chiếc ghe đã bắt đầu lắc lư dữ dội và ngay sau đó nó tròng trành theo gió và những đợt sóng lùa cực mạnh. Ba Tài đã phát hiện ghe của mình bị trôi. Anh gáo lên: – Bám chặt mui ghe! Anh còn la mấy lần nữa, nhưng đó là những tiếng gào cuối cùng. Bởi nếu có thể nhìn rõ được qua màn mưa thì ắt Ba Tài đã phải bàng hoàng, bởi bóng dáng mảnh mai của Mỹ Lệ vừa bị bần tung ra khỏi ghe. Mưa gió vẫn hoành hành suốt ba tiếng đồng hồ sau. Chiếc ghe gần như bị lật úp và trôi dạt theo dòng nước đang cuồn cuộn chảy, trên một dòng sông mênh mông… – Đêm tối mịt mùng… Cho đến rạng sáng ngày hôm sau… – Mưa đã bắt đầu tạnh. Người đầu tiên phát hiện ra chiếc ghe mắc cạn ngay trước cửa nhà mình là một lão nông, khi ông vừa đẩy được cánh cửa xiêu vẹo bởi cơn gió suýt làm sập từ đêm qua. Nhìn thấy chiếc ghe nằm nghiêng chiếm hết phần sân, ông kêu lên: – Ghe của ai mà leo lên tận nhà mình nè bà ơi! Bà lão đang dọn lại nhà bếp bị mưa dột tứ tung, vừa lên tiếng: – Chắc là trời cho mình ghe để đi chở lúa trúng năm nay đó. Ông lão nghển cổ sang nhà hàng xóm gọi lớn: – Năm Xị ơi, qua coi giùm tao coi ghe của ai mà nằm trên sân vậy nè? Từ bên căn nhà lá đã bị sập gần phân nửa mái trước, có tiếng đáp lại: – Tôi thấy rồi, tính chờ ông dậy báo cho ông biết là của trời cho ông đó, ông Sáu ơi! Ông Sáu Đời chỉ tính bước lại coi qua, chứ sức ông thì làm sao chuyển dời được chiếc ghe dài gần bằng cái nhà. Nhưng bông ông giật mình khi thấy từ trong ghe có đôi chân trần của ai thò ra ngoài! – Năm Xị! Mày qua coi, có xác chết đây nè! Khi Năm Xị chạy qua thì cả bà Sáu cũng có mặt. Bà quá sợ nên run rẩy nói: – Mau cứu người ta ra đi rồi báo cho chòm xóm biết! – Thật là tội nghiệp… Không đợi thêm người, chính ông Sáu đã đẩy được phần mui ghe bị sập lên và thấy được cả người bỉ nạn kẹt bên trong. Ông kêu lên: – Một người đàn ông Năm ơi! Khi họ kéo được xác ra thì đó rà Ba Tài! Năm Xị lo lắng: – Dám còn người trong ghe nữa lắm à! Anh ta ra sức chui vào trong khoang ghe để tìm. Cuối cùng anh lắc đầu bảo: – Hết rồi! Bà Sáu chạy đi tìm chiếc chiếu cũ để đắp xác nạn nhân, nhưng khi vừa cúi xuống thì bà hốt hoảng kêu lớn: – Còn thở! Ông Sáu Đời quay lại nhìn rồi cũng reo lên: – Còn sống thật Năm ơi! Năm Xị đã đôi lần cứu người chết đuối nên có kinh nghiệm, anh ta la lên: – Bà Sáu trải chiếc chiếu ra để anh ta nằm lên, rồi mình đốt lửa hơ cho anh ta ấm, người tím tái hết rồi! May mắn, sao hơn mười phút hơ lửa, Ba Tài đã hồi tỉnh. Vừa mở mắt ra, anh chàng đã bàng hoàng kêu lên: – Mỹ Lệ! Em đâu Lệ ơi. Ông Sáu Đời phải trấn an: – Chỉ có mình cậu trên ghe. Chắc ai đó còn bám víu được ở đâu đó, không sao đâu! Bấy giờ Ba Tài mới nhìn chung quanh, anh trấn tĩnh lại và bắt đầu mếu máo: – Sao con vợ tôi nó không chịu bám ghe… nó yếu đuối quá mà, sao chịu nổi sóng gió hả trời! Sau một hồi gào khóc kêu tên vợ, Ba Tài mới bắt đầu kể lại chuyện mình bị nạn. Anh nói: – Tôi đang đậu ghe ở giữa kinh Xáng thì gió nổi lên… Ông Sáu chép miệng: – Ở đây là gần cầu số 5 cách kinh Xáng đến hơn ba chục cây số. Năm Xị cũng nói: – Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy ghe trôi ngược từ dưới lên trên, suýt chút nữa là trôi tới tận Bảy Núi rồi! Ba Tài giật mình: – Đây là cầu số 5 sao? Vậy gần nhà tôi. – Cậu ở đâu? – Dạ, ở Vọng Thê, ở trên triền núi Ba Thê. Năm Xị reo lên: – Gần quê của vợ tôi rồi! Anh quay gọi về nhà: – Má mấy đứa nhỏ ơi, qua nhìn bà con nè! Vợ Năm Xị chạy qua và la lên: – Ba Tài đây mà! Trời ơi, sao vậy nè? Sau khi nghe kể chuyện, chị Năm lo lắng: – Con Mỹ Lệ hồi còn con gái là đứa bơi lội dở nhất trong đám bạn bè tụi tôi. Sao anh dám cho nó đi theo ghe? Ba Tài mếu máo: – Túng tiền quá nên tính đi chuyến này rồi nghỉ luôn. Con vợ tôi nó cũng căn nhằn hoài, không thích đi buôn bán dưới ghe. – Có ghe chở hàng đi bán đây đó là nhất đời rồi, chỉ hiềm con nhỏ bơi / lội dở, không ưa sông nước thôi. Mà thôi, bây giờ đã như vậy rồi, anh Ba cứ nghỉ ngơi cho khoẻ rồi tôi bảo ông chồng tôi cùng với anh đi tìm con Lệ. Ba Tài lòng nóng như lửa đốt, liền đề nghị: – Nhà chị có xuồng, làm ơn cho tôi mượn, tôi muốn đi tìm ngay. Chậm một giây nào là… Anh ta lại khóc như trẻ con, khiến mấy người chung quanh cũng mủi lòng. Bà Sáu nói: – Tôi có chiếc xuồng con, chịu được sóng gió, lùm bụi, cậu cứ lấy mà đi. Cần thì ông nhà tôi đi theo giúp nữa. Năm Xị nói: – Thôi, chú Sáu ở nhà, để tôi đi với Ba Tài được rồi. Họ bắt đầu cuộc tìm kiếm, bắt đầu ở chỗ nhà, lần ngược theo hướng gió đi về phía kinh Xáng, băng qua đồng tràm bị ngã tạp vì gió bão. Lúc gió bão đi ghe chắc chừng vài giờ, còn lúc này Ba Tài không bỏ sót lùm tràm nào còn nhô lên khỏi mặt nước, nên phải mất gần cả ngày mà vẫn chưa tới được kinh Xáng. Năm Xị nói: – Tôi có nhà người quen ở khúc kinh Xáng dưới này, hay là ta ghé đó nghỉ ăn cơm đã, rồi đi tiếp. Ba Tài không muốn nghỉ, nhưng phải chiều lòng bạn, nên miễn cưỡng huống chống về phía đó. Tiếp họ là vợ chồng anh chàng chuyên lấy củi ở rừng tràm, Tám Đối vừa nghe nói mục đích chuyến đi đã reo lên: – Dám cái này lắm à! Sáng nay đi kiếm củi ở vạt rừng phía trước, vợ tôi thấy có chiếc áo của ai vất trên nhánh tràm, thấy còn mới nên nó lấy về tính để mặc. Coi phải áo của chị nhà không? Ba Tài vừa nhìn thấy chiếc áo đã la hoảng lên: – Áo của vợ tôi mà! Rồi anh khóc rống lên Tám Đối nói thật lòng: – Áo đang mặc trong người mà bị lột ra, máng trên nhánh cây là đã bị gió nước cuốn trôi mạnh lắm! Ba Tài hầu như chẳng còn nghe ai nói gì nữa, anh chỉ khóc, vừa ôm chiếc áo vào lòng vừa gào lên từng hồi… Suốt ba ngày như điên như dại, tìm kiếm hầu như khắp các cánh đồng mà chẳng thấy dấu vết gì của vợ. Ba Tài trở về nhà như cái xác không hồn! Người ở xóm vừa trông thấy anh đã kêu lên: – Thằng này bộ thành ma hiện về hay sao vậy? Con vợ mày nó đợi mày ba bốn bữa nay, khóc hết nước mắt vì mày. Ba Tài tưởng mình nghe lầm: – Mấy người nói gì? Con vợ tôi chết thì hãy để vong hồn nó yên, đừng có… Dì Mười bán tạp hoá trợn mắt nhìn Tài: – Cái thằng bộ khùng sao chứ, vợ mày nó uổng công đợi mày quá! Ba Tài vẫn giọng tưng tửng: – Còn vợ đâu mà đợi với chờ! Dì Mười cứ tưởng Tài khùng, bà la lớn: – Về nhà nhanh lên đi, con vợ mày nó khóc hết nước mắt rồi đó! Đến nước này Ba Tài mới ngớ người ra: – Cái gì? Dì Mười nói giỡn hay thật? Vừa hỏi, Ba Tài vừa cắm đầu chạy một mạch về nhà mà trong lòng hoang mang tột độ. Từ xa, Tài đã nhìn thấy nhà mình có khói bốc lên, chứng tỏ có người! Mà nhà anh ta thì ngoài hai vợ chồng ra có ai khác đâu mà nấu với nướng? – Mỹ Lệ! BaTài nhìn thấy vợ đang nhúm lửa nấu cơm trong bếp mà không tin đó là sự thật! Anh phải gọi lần thứ hai: – Lệ! Có phải là em không? Mỹ Lệ đứng dậy reo lên rồi nhào tới ôm chầm lấy chồng, cô nghẹn ngào: – Tưởng anh không về… Rồi cô khóc như mưa! Thật quá bất ngờ đến không thể nào tin nổi! Tài lắp bắp: – Em… em thật… thật không vậy? Mỹ Lệ cũng sờ nắn từ vai xuống ngục Ba Tài nghi ngờ: – Có phải anh thật không vậy? Vợ chồng mừng như vừa qua cơn ác mộng. Mỹ Lệ kể: – Em bị nước cuốn trôi và em ngất đi, cho đến khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trên một chiếc ghe lớn. Em hoảng hốt khi thấy mình đang mặc bộ quần áo cửa người khác. Thì ra vợ chồng người chủ ghe tốt bụng đã vớt được em trong lúc em ngất xỉu nằm trên một chiếc xuồng lật úp. Ba Tài kể lại những ngày đi khắp cánh rừng tràm tìm kiếm. Nhớ lại chiếc áo, anh hỏi: – Chiếc áo máng lại trên nhánh tràm, vậy khi người ta vớt em thì… trần trụi hay sao? Lệ ngượng ngùng: – Lúc đó còn biết gì nữa… Mà thôi kệ, miễn còn sống trở về với anh là mừng rồi! Suốt đêm hôm đó hai vợ chồng hầu như không ngủ, đến gần sáng Lệ hỏi một câu làm Ba Tài giật mình: – Chuyện anh với cô út Sương hồi đó kết thúc ra sao? Ba Tài trố mắt: – Sao khi không em hỏi chuyện đó làm gì? Chuyện ấy là thời anh còn trai trẻ, anh và cô ấy có.. nhưng xong hết trước ngày anh cưới em mà! Anh coi như không còn nhớ gì… Nhưng em thì nhớ! Anh có biết là trong lúc hôn mê khi trôi trên sóng nước em thấy gì không? Thấy có người nói là anh phụ cô đã bỏ rơi khi cô ấy đã… có thai! Đúng không? Chương 10: Tiếng Hú Rừng Tràm 2 Ba Tài giật mình: – Ai nói… bậy bạ vậy? Làm gì có chuyện đó! Đâu phải ai nói, mà em mơ thấy. Mấy hôm nay nằm nhà chờ anh, em cũng còn mơ tiếp giấc mơ kỳ lạ đó? Em chờ anh về để hỏi… Tài gạt ngang: – Không hề có chuyện ấy! Rồi như không muốn cho vợ đề cập đến chuyện đó nữa, Tài lảng sang chuyện khác: – Nói cho tôi nghe coi, bữa được người ta vớt lên thì ai vớt, ai thay quần áo cho em? Có phải thằng cha chồng của bà chủ ghe không? Lệ nguýt dài: – Đừng đánh trống lảng, hãy trả lời em lần nữa đi, có phải hồi trước lấy người ta có thai rồi bỏ không? – Đã nói không có mà! Tài khoả lấp bằng hành động âu yếm, nhưng Lệ vẫn chưa chịu buông tha: – Hỏi là hỏi chơi vậy chứ em biết hết rồi! Em con biết cái thai khi đó đã được trên ba tháng nữa… Và hồi đó anh còn tính đặt cho con là Minh Lộc nữa. Tài Lộc mà! Nghe vợ nói quá chi tiết nên Tài giật mình: – Sao.. sao em biết? Ai nói? Giọng Lệ càng lúc càng tỉnh táo hơn, đến đỗi Ba Tài phải giật mình: – Lệ, sao em cứ nhắc lại chuyện đó hoài vậy. Bộ không thương anh sao? – Thương anh, nhưng anh đâu có thương người ta! Anh bỏ người ta trong lúc bụng mang dạ chửa, vậy lương tâm anh ở đâu? – Câu nói của Lệ khiến Tài phải ngồi bật dậy nhìn thẳng vào mặt cô: – Lệ! Có phải là em không? Tại sao… Mỹ Lệ không trả lời mà đứng lên bước xuống khỏi giường, lát sau trở lại đặt lên bụng Tài một vật gì đó mềm mềm, lành lạnh như vừa lấy từ dưới nước lên. – Cái gì vậy? – Nhìn thì biết. Tài định nhảy xuống giường đốt đèn, nhưng Lệ đã nói: – Anh sờ sẽ biết ngay là cái gì mà. Ba Tài đưa tay sờ vào và kêu lên thảng thốt: – Tóc! Đó là lọn tóc dài được khoanh lại. Điều đó gợi ngay cho Tài một hình ảnh: – Út Sương. Một tiếng thở dài trong bóng tối: – Ít ra thì anh cũng đã thừa nhận. – Em… Tài đưa tay định mơn trớn, xoa dịu cô vợ trẻ, nhưng lúc ấy anh giật mình, bởi tay anh vừa chạm vào một thân thể sũng nước, lạnh ngắt! – Lệ! Toàn thân Lệ bất động, Tài phải lay mấy lượt cưng chẳng chịu nhúc nhích. Hốt hoảng, Tài nhảy xuống tìm cách đốt đèn dầu lên, nhưng tìm mãi mà không thấy cây đèn đâu. Phải loay hoay mãi anh mới đốt được đèn và soi vào mùng, kèm theo tiếng gọi lần nữa: – Lệ! Nhưng Tài điếng hồn khi thấy chỗ của Lệ nằm giờ chỉ còn là bộ quần áo đẫm nước, mà Lệ thì chẳng thấy đâu! – Lệ ơit Em ơi… Ba Tài có linh tính chẳng lành, anh tốc chạy ra ngoài vừa kêu vang. Nhưng do chung quanh rất ít nhà cửa, nên dù tiếng kêu vọng lớn trong đêm, phải một lúc sau mới nghe có tiếng của Hai Mười hỏi lớn: – Cái gì vậy Ba Tài? – Vợ…vợ con mất tiêu rồi! Khi hỏi ra sự tình, mọi người đều ngạc nhiên: – Nó đi đâu giờ này? Hay là mày làm gì nó giận rồi trốn ở đâu đó chăng? Dì Mười và mấy người nữa cùng với Tài chia nhau đi tìm, nhưng mãi tới sáng hôm sau cũng chẳng thấy tăm hơi gì của Lệ. Đến khi mặt trời lên thì có người từ dưới triền núi chạy lên báo: Chiếc ghe của anh Ba Tài đâu mất rồi! Ba Tài sững người, kêu khẽ: – Lệ đi rồi! Mất chiếc ghe coi như Ba Tài cụt chân. Mùa nước nổi chung quanh núi đều là nước, núi Ba Thê giờ như một ốc đảo cô lập giữa đại dương. Giờ có muốn đi tìm Lệ cũng chẳng biết làm sao, bởi hầu như nhà nào cũng chỉ có một chiếc xuồng dùng để đi lại, đâu có ai dư! Dì Mười lúc đó mới thắc mắc: – Không biết bữa con Lệ về đây nó đi bằng gì mà chẳng thấy xuồng ghe gì hết? Ba Tài thẫn thờ như người mất hồn, Khi anh trở về nhà thì bộ quần áo ướt của Lệ cũng chẳng thấy! Thay vào đó là cái nón lá cũ của ai để trên gối, mà khi cầm lên Tài phải giật mình, vì bên trong nón có dòng chữ viết bằng than củi: Tìm em ở rừng tràm. Ba Tài kinh hãi: – Không xong rồi! Anh qua năn nỉ dì Mười: – Dì Mười làm ơn cho con mượn chiếc xuồng của ai để đi tìm vợ con. Nó gặp nguy. Không cho cũng kỳ, nên dì Mười dặn thòng: – Mày có đi thì đi cho nhanh mà về, để ngày mốt tao còn đi n