ay. Xin quí vị chớ có kinh hãi khi thấy điều lạ. Rồi đó sư Thiệt Pháp và sư Thiệt Tánh bắt đầu làm lễ chiêu hồn, triệu thỉnh âm binh. Trên nền trời màu xanh nước biển, trăng tròn và sáng vàng vặc. Trong khuôn viên của am, bốn bề quạnh quẽ, tàn cây, khóm chuối tô những khối bóng bí mật trong biển trăng. Gió lúc đầu reo từng đợt phơi phới. Nhưng rồi câu thần chú, lời kinh, tiếng hú đầy âm vang rờn tợn làm cho ánh trăng trở nên lạnh lẽo, tiếng gió hóa ra thê thiết và cảnh vật chung quanh như huyền ảo và rờn rợn bóng âm hồn… Khi cuộc chiêu hồn chấm dứt, nhị vị pháp sư trở về bàn tròn với mọi người. Ông Đạo Chuối tắt ngọn đèn măng- sông trong chánh điện, rồi cùng mọi người chong mắt ngó ra sân, chỗ đạt bàn hương án. Một trận gió tanh nồng mùi máu thổi tới, một người mặc áo đen cụt đầu, tay xách thủ cấp mình, hổn hển nói: – Tôi là thần Hắc Giao đại vương. Bởi ông Kinh lý Luyện tham vàng nên tôi bị cụt đầu. Nay nhờ nhị vị pháp sư cầu siêu nên tôi sẽ được đầu thai làm con Nam Hải Long Vương. Ông ta ráp đầu vào cổ rồi biến đi. Một người đàn bòa mặc áo trắng, mặt mày xanh chành, theo gió hiện đến, bảo: – Tui là Đỗ thị Thoại Huê, vì uống lầm thuốc phá thai của ba người con ông Bang biện Hưỡn mà vong mạng. Nhờ pháp sư Thiệt Tánh khuyên dứt nên tui dẹp bỏ oán thù, sẽ theo đức Thiên Hậu chùa Minh Hương cứu nhơn độ thế để mai sau thác sanh vào cảnh giới tốt lành. Hình bóng chị mờ dần để thay vào là một người đờn bà trạc ba mươi tuổi, dáng dấp yêu kiều. Bà ta thở khò khè một cách khó nhọc: – Tui tên Nguyễn Trinh Thục, con gái ông Huyện Tịnh ở Phú Nhuận. Chồng tôi là thầy kiện Trần Hảo Hiệp. Bởi con vợ bé của chồng tui là con Tư Cẩm Lệ ghen ngược, mướn Thạch Lọn thu da trâu vô bụng tui nên tui chết tức tưởi. Suốt tám năm nay tui a tòng với đứa ma ranh báo oán nó. May nhờ có nhị vị pháp sư soi rõ, tui mới vỡ lẽ rằng hồi kiếp trước tui đã ác độc dùng bột tì sương đầu độc con Tư nên kiếp này nó hại mạng tui để báo thù. Vậy để chấm dứt chuyện oan oan tương báo, tui xin tìm nẻo đầu thai, chớ làm oan hồn thì thường chịu đói khát, lãnh lẽo. Hồn cô Tư Thục vừa biến mất thì gió lốc nổi lên, một áng sương như khói đặc thoảng qua mang theo tiếng khóc tỉ tê. Rồi khi sương tan thì một cặp vợ chồng trung niên hiện ra. Ông chồng nói: – Tui là Bang biện Vương Văn Hưỡn, vợ tui là Trịnh Thị Thiệt. Bởi vợ chồng tui ăn ở ác đức nên bị sa địa ngục, chịu khổ hình qua một tiểu kiếp rồi mới đi đầu thai được. May nhờ có thằng con trưởng tui cải tà qui chánh, thường tụng kinh Vu Lam và kinh Địa Tạng cho cha mẹ nó. Lại nữa thằng con út tôi xuất gia, thường tụng thần chú Mật Tông cho vợ chồng tui nên nghiệp ác của tụi tui tiêu bớt khá nhiều. Tụi tui chỉ phải chịu khổ hình chừng 5 năm nữa rồi sẽ được đầu thai. Ông bà Bang biện Hưỡn biến mất. Trăng sáng vằng vặc bỗng chiếu xuống sân một luồng như dải lụa bạch. Một người đàn bà mặc áo trắng, sắc diện phúc hậu đoan trang hiện ra, kể lể: – Tui là Phùng thị Kim, nàng hầu ông Bang biện Hưỡn và là mẹ của pháp sư Thiệt Tánh. Sau khi phù hộ con tui lên núi Cô Tô tu hành, đáng lẽ tui được đầu thai vào gia đình lương thiện, nhưng đức Cứu Thiên Huyền Nữ cảm thương thói nhẫn nhục của tui, cho tui làm thị nữ hầu hạ ngài để rồi kiếp sau tôi sẽ thác sanh vào quốc độ tốt lành hơn cõi uế độ hồng trần nầy. Luồng sáng mờ dần để từ bóng tối bước ra một người đàn ông mặt thỏn, râu ngạnh trê. Đương sự khai: – Tui tên Bùi Văn Khói tức Mười Khói, chuyên làm bùa chú. Bởi tôi ếm trấn Hắc Giao Đại Vương nên ổng sai con sấu ở sông Cổ Chiên táp cụt tay tui khiến tui mất máu chết. Hồn tui không thể đi đầu thai được mà phải luẩn quẩn theo phò con sấu đó. May nhờ nhị vị pháp sư lập đàn giải oan nên đêm nay tui sẽ tới quán cháo lú của Mạnh Bà bên cầu Nại Hà ăn cháo xong mới đi đầu thai. Thầy Mười Khói vừa biên mất thì một luồng gió tanh tưởi thổi đến. Mặt trăng bị cụm mây đen án ngữ nên cảnh vật tối sầm lại. Khi cụm mây trôi đi thì một người mập mạp, mình mây ướt sũng hiện ra, nói: – Tui là con cá nược đực thành tinh, thường gây chứng bịnh mắc đàng dưới cho các bà các cô bên lưu vực sông Bà Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, trong đó có cô Út Ngọc An nữa. Vì ông bà Chín thỉnh ông Đạo Chuối và cô Thiệt Nguyện tụng kinh Dược Sư nên tui bị các tướng Dược Xoa đánh đuổi rồi bị Nam Hải Long Vương đánh chết, hồn sa vào địa ngục A Tì.. May nhờ tui đã từng cứu vớt ông Đạo Chuối và sư Thiệt Tánh hồi kiếp trước khỏi chết chìm trên sông nước nên họ tụng kinh cho tui thường xuyên. Giờ tui đã thoát khỏi địa ngục A Tỳ chỉ còn ở ngục phanh thây chừng mười năm nữa sẽ được đi đầu thai. Hồn con thủy quái biến đi thì một người đàn ông ở trần, tay và ngực đầy lông lá khét nghẹt hiện đến, buồn rầu nói: – Tui là con chó ngao thành tinh, đêm đêm lén vô phòng cưỡng dâm bà Bành Thị Mười Hai, nhưng rồi bị ông Đạo Chuối đào mả khiến tui phải chết luôn. Hồn tui bị đọa địa ngục phân dơ, đàm nhớt tanh hôi. May nhờ được nghe kinh nên tui đã thoát khỏi địa ngục, sẽ đầu thai làm chó nhà nghèo hai kiếp, kiếp thứ ba làm chó nhà giàu cho sung sướng tấm thân. Gió càng lúc càng mạnh, cuốn lá vàng trên sân lào xào, xua tan mùi hôi hám, tánh tưởi của các thú vật thành tinh kia đi. Trăng đã ngả về tây, sáng long lanh ánh nước. Rồi một cụm tường vân đẹp như ren thêu ôm quanh mặt trăng. Một mùi hương lạ sực nức khắp khuôn viên am. Một mỹ nhân áo trắng vàng đeo ngọc khảm chấp chới, hương xông xạ ướp ngạt ngào, tay cầm bình ngọc xanh hiện ra: – Tui trước kia là con tinh cây cẩm lai, có làm một vài việc thiện nên tui được thác sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương làm cây quỳnh trổ bông ngũ sắc cho chư tiên cúng Phật. Giờ, tui hiện về đây để chúc mừng các con ông Bang biện Hưỡn đã quyết tâm phá mê trừ khổ. Mỹ nhơn kê miệng vào bình ngọc uống một ngụm nước rồi phun thành một áng sương thơm mát càng lúc càng tỏa rộng. Khi sương tan thì đương sự cũng biến mất. Trên không trung văng vẳng tiếng nói trong trẻo và vang lộng như chuông ngân: – Ngày mai các huê kiểng trong khuôn viên này sẽ thạnh phóng, báo hiệu Phật pháp nơi vùng đất Vãng được lưu hành xa rộng dài lâu. Khi tiếng nói im thì pháp sư Thiệt Tánh hỏi vọng ra: – Còn ai nữa không? Xin mời ra hội kiến! Một giọng nói non ớt trổi lên: – Có tui đây! Một đứa nhỏ cỡ bốn, năm tuổi hiện ra, nhìn về phía cô Tư Cẩm Lệ: – Có một kiếp nọ tui là con cô Tư đây. Tía tui vừa chết, cổ tái giá với một tên hào phú kia. Ga này không thích vợ có con riêng nên cô Tư trấn nước cho tui chết. Bởi đó nên tui theo báo oán cổ hoài. Giờ đây, cô Tư đã quyết tâm cải tà qui chánh nên tui cởi bỏ oán hận, hóa huyết chui ra, kết thúc mối thù truyền kiếp cho xong. Nói xong đứa trẻ vói tay cười khanh khách rồi biến mất. Lúc đó gà trong xóm bắt đầu lác đát gáy hiệp nhứt. Trên trời sao sáng vẫn nhấp nháy. Mặt trăng sáng quạnh hiu treo lơ lửng ở phương tây. Mùi bông lài vẫn thơm sực nức bên thềm. Bỗng một cặp vợ chồng tuổi trạc ba mươi ngoài, dắt một đứa nhỏ cỡ mười tuổi, mặt mày tươi rói. Người chồng bảo: – Tụi tui là gia đình người thợ rèn ở gần Cầu Lầu bị sét đánh chết. Bởi tui có làm chút ơn với sư Thiệt Tánh nên sư thường giải kinh Thập Nhị Nhơn Duyên cho tụi tui nghe, giờ tụi tui sắp thác sanh lên cung trời Đao Lợi để hưởng ngũ dục cùng dân quốc độ ấy. Gió lốc nổi lên, cả ba biến mất. Trời trong trăng tỏ hơn bao giờ hết. Sư Thiệt Tánh dẹp bàn hương án, khiêng vào trong. Ba anh em cậu Hai Luyện chắp tay niệm Phật không ngớt. Cô Tư Cẩm Lệ nước mắt ràn rụa bảo sư Thiệt Tánh: – Bạch đại đức, gia đình mình gặp bao tai biến mà cuối cùng còn có thể nương theo đạo pháp chính là nhờ đại đức vậy. Chị em tui từ đây sẽ vững lòng tu hành và làm kẻ trợ tu cho anh Hai. Sư Thiệt Tánh chỉ chắp tay niệm Phật. Ông Đạo Chuối bảo: – Dưới nhãn quan người đời thì gia đình ông Bang biện Hữu suy sụp, ba người con dòng chánh xuống dốc thảm thê. Nhưng qua cặp mắt giác ngộ, chưa chắc có gia đình nào hơn gia đình ông kể từ đây. Ông Hương cả Hành tiếp lời: – Cô Thiệt Nguyện thì từ đạo trở về đời, côn hai cô Cẩm đây từ đời trở về đạo. Thiện tai! Thiện tai! Trời sáng trắng bên ngoài. Nắng bắt đầu lên. Bỗng sư Thiệt Pháp chỉ ra sân: – Quí ông quí bà xem kìa! Bồn hoa giữa sân gồm bông cúc, sao nhái, nở ngài, móng tay, huệ lan tưng bừng nở. Bên thềm những khóm ngọc đơm trắng hoa thơm ngát. Ngoài xa, các cây sứ cùi, cây dành dành trổ bông trắng, bằng lăng trổ hoa tím, ô môi hoa hường, điệp tây hoa đỏ. Và kìa những khóm trang đỏ, trang hường, trang vàng, trang trắng trồng giáp mé vườn cũng trổ bông ê hề. Nơi vòm cổng, màu vàng bông huỳnh anh chói rực giữa màu trắng và đỏ của giàn bông giấy. Ông Hương cả Hành theo chân ông Đạo Chuối và nhị vị pháp sư bước ra sân, tới mấy gốc quỳnh trồng trong chậu thì thấy mỗi cây đã trổ bảy búp lớn cỡ bụm tay. Ông Đạo Chuối niệm Phật rồi bảo: – Đây là nhờ thần lực của tinh linh cây quỳnh trên cõi trời Tứ Thiên Vương vậy.