hắng đến. Vậy nên, sau khi lấy được tiền, việc đầu tiên Quảng Thắng làm chính là tới gặp lại người xưa. Nơi đây tuy là nông thôn, nhưng lúc nào cũng có du khách từ nơi khác tới ở nhờ nhà các hộ nông dân để du lịch vài ngày, nên có vài người lạ mặt xuất hiện cũng là việc bình thường. Lúc Quảng Thắng đang bận rộn gieo hạt Cam Lộ cho ruộng hạn đã lâu của người tình, thì bỗng nghe thấy tiếng phịch phịch từ phòng cách vách vọng sang. Về vấn đề này, đàn ông con trai đều giống nhau cả thôi. Quảng Thắng nghĩ gã đã nghẹn mấy năm nay rồi, nên phải làm một phát pháo cao xạ a? Thiệt là, anh bạn sát vách có khi còn đói khát hơn gã ấy chứ. Lần thứ ba, gã đã đình chiến, phía bên kia vẫn còn đập tường rung lên rầm rầm. Tiếng thở dốc nặng nề, làm người tình lại quấn lấy gã không buông. Quảng Thắng đã hết tiệt đạn rồi, anh hùng hụt hơi không khỏi thẹn quá hoá giận, tiếng động cách vách thực sự không giống tiếng nam nữ ái ân chút nào, một kẻ từng ngồi tù như gã thì cũng chẳng lạ gì cái thứ cặn bã này. Vì vậy Quảng Thắng bực mình đẩy người phụ nữ đang quấn lấy gã ra, ra sân hút thuốc. Gã nghe thấy tiếng dội nước từ sân nhà bên vọng sang, thế là bèn cùng với mấy tên tay chân đang hóng mát trong sân ra đứng ở đầu tường định nhìn thử tí, để xem rốt cuộc là ai ở nơi thôn quê thuần phác này mà lại hung hãn thế. Kết quả là Thiệu vượt tường nhảy sang. Quảng Thắng cứ tưởng Thiệu cũng là bạn cùng vượt ngục, bèn kéo Thiệu vào phòng, mang rượu thịt lên, nhân tiện tìm cách dò hỏi. Bởi vì hai học sinh không mang nhiều tiền trên người, nên bữa tối của Thiệu và Thủy Căn chính là một bữa tiệc chay, xanh biếc một màu rau. Thiệu vẫn còn giữ thói quen ăn uống từ kiếp trước, người Tiên Ti vốn không thịt là không vui. Cho nên bữa tối hắn hầu như chẳng ăn gì cả. Giờ nhìn thấy gà quay nguyên con, hắn cũng không thèm khách khí nữa, chưa được vài miếng, một con gà đã chỉ còn lại nửa bộ xương. “Ta bảo nè, Đới công tử, làm thế nào mà ngươi chuồn ra được vậy?” Thiệu không nói một lời, chỉ im lặng ăn. Đúng lúc này, trên tivi trong phòng đang phát tin tức địa phương mới nhất . Ở phía đông bắc Thanh Nguyên huyện, vốn có một vùng núi rừng rậm rạp. Đột nhiên trên núi xảy ra một vụ nổ, từ vết nứt không ngừng chảy ra thứ nước đỏ thẫm. Cùng lúc đó, người ta còn phát hiện ra tám cái xác bên ngoài rừng, nguyên nhân tử vong lần lượt là chết đuối, bị cắt đứt yết hầu và bị xiết cổ đến chết. Thân phận của những người chết đã được điều tra ra, hiện giờ người ta đang tìm kiếm nhân chứng. Đồng thời còn phát tin hình ảnh của những người mất tích. Rõ ràng là Đới Bằng, Ngô Thủy Căn, tiến sĩ Lương và Phùng cục trưởng! Thiệu cả kinh, hắn nhìn những bức ảnh trên màn hình, lòng đầy những nghi hoặc. Nuốt miếng thịt gà trong miệng xuống, hắn không khỏi nhíu chặt lông mày. Bọn Quảng Thắng đã xem hết mục tin tức, quay lại trừng Thiệu đầy kinh ngạc, điếu thuốc ngậm trên miệng suýt nữa là rớt xuống rồi. “Mày…… Đây đều là do mày làm? Không ngờ thằng nhãi ranh mày còn dã man hơn cả xã hội đen thứ thiệt đấy!” Thiệu lau miệng, thấy ánh mắt hấp háy của Quảng Thắng là biết ngay gã đang tính kế hắn đây mà. Nên biết rằng, tuy mấy gã này là tù vượt ngục, nhưng dù sao cũng chẳng phải tội phạm nghiêm trọng hàng đầu trong hồ sơ cục cảnh sát chi cả. Cho dù đã phát lệnh truy nã, chỉ cần chúng chuồn thật xa vào, tám chín phần mười là sẽ không có đông lực lượng cảnh sát tham gia đối phó mấy con tép riu này. Thế nhưng cái tên đang gặm đùi gà trước mặt gã đây thì khác. Giết hại những tám mạng người ở ngay khu du lịch, lại còn cả ngài cục trưởng cục cảnh sát vẫn chưa rõ sống chết nữa. Dây vào hắn thì có khác nào xin được đợi cảnh sát tới tóm cổ không hả? Chỉ sợ tin tức truyền ra xong là ngày hôm sau cảnh sát tìm tới tận cửa liền. Thiệu nghĩ đi nghĩ lại, nói với gã: “Quảng thắng huynh, ngươi có muốn xử lý chỗ tiền phi nghĩa kia không ……” Quảng Thắng đã dao động, chần chờ hỏi:“Lời này của ngươi là có ý gì?” Thiệu mỉm cười, ghé sát vào Quảng Thắng thì thầm một hồi… Sau khi Thiệu và Quảng Thắng đàm phán xong xuôi, Quảng Thắng niềm nở tiễn hắn về tận tiểu viện sát vách. Khi Thiệu vào nhà, Thủy Căn đang co rúm lại ở đầu giường, có lẽ đang ngủ. Giữa hai chân tiểu hài tử là dịch thể nhơ nhuốc lẫn lộn. Cả người không sạch sẽ như vậy, nếu như không phải vì mệt muốn chết rồi, cậu hẳn đã không ngủ được. Thiệu nghiêng đầu nhìn hài tử trên giường đất, đã định một phát đạp cậu lăn xuống đất ngủ tiếp. Nhưng có lẽ khi nãy ăn nhanh quá, bụng hắn lại âm ỉ đau. Hắn không nhịn được phải xoa tới xoa lui nơi bụng dưới. Thế nhưng tự xoa cho mình thì cảm giác dễ chịu giảm đi rất nhiều. Lúc này tiểu hài tử trên giường đất lại trở mình, quay mặt về phía Thanh Hà Vương, chẳng biết cậu đang cãi cọ với ai trong mộng, mà cái mũi lại sụt sịt, khóe mắt lại ươn ướt. Thiệu vươn tay muốn chạm vào khóe mắt của Thủy Căn, nhưng cuối cùng lại rụt tay lại. Sao trước đây mình lại cứ nghĩ nó là Vạn Nhân nhỉ? Cái thói quen khóc giữa những cơn mơ này từ kiếp trước đến giờ vẫn không hề thay đổi mà. Tiểu hài tử ngoan ngoãn lặng lẽ ban ngày, vừa chìm vào giấc mộng là lộ nguyên hình ngay tắp lự. Cậu cứ nghiến răng bĩu môi, khóc lóc kể lể tất cả những tủi thân đã nín nhịn trong lòng. Hồi bảy tuổi, hắn lúc nào cũng thích lẻn vào tẩm cung của hoàng hậu, và nghe ca ca hắn nói mớ. Để rồi đến sáng hôm sau, khi cùng đọc sách trong thư phòng, sẽ trào phúng kể lại cho y nghe, rồi lại trấn lột của Vương huynh đang ngượng chín người vài hạt châu khắc hoa hay một cây sáo ngọc thổi ra tiếng nhạc. Trong vương cung đầy rẫy tranh đấu hục hặc, làm cho các hài tử lớn lên trong hoàng tộc phải sớm xa rời những ngày thơ ấu vô tư. Nhưng dù cho tình thân có lạnh lùng đến mấy, cũng vẫn có được những giây phút tình cảm dịu dàng. Chỉ có điều, rất nhiều những xung đột quyền lợi đã rửa trôi hết những tình cảm ấm áp kia chẳng còn gì nữa. Để mỗi lần tìm lại trong trí nhớ, sẽ chỉ còn lại những đoạn ký ức mong manh đến đáng thương, làm người ta không khỏi thở than. Quãng thời gian ngàn năm đằng đẵng, tại thời khắc này như bóng câu qua song cửa, bất chợt vậy thôi. Cho dù nơi đây chỉ là nhà ngói đơn sơ, cũng chẳng phải tòa cung điện rường cột chạm trổ, nhưng lúc này đây Thác Bạt Thiệu quả thực đang nhớ lại những này ấu thơ vô ưu ngắn ngủi của mình. Còn người đang thút thít nói mớ trên giường đất đằng kia lại chính là người bạn thưở nhỏ duy nhất của mình, và cũng là cố nhân quen thuộc duy nhất ở thế giới xa lạ này. Yêu cũng được, mà hận cũng được, hiu quạnh đã ngàn năm, cô tịch tăm tối so với cái chết còn đáng sợ hơn nhiều lắm. Thiệu muốn có người ở bên mình, cho dù là kẻ hắn hận nghiến răng cũng được, ít nhất cậu còn sống, như vậy hắn mới có người để mà hận, cuộc sống mới có ý nghĩa. Có lẽ chính vì sợ hãi sự cô độc, nên mình mới trở lại tế đàn đang sụp đổ mà cứu nó? Thiệu cuối cùng vẫn không gọi Thủy Căn dậy, hắn ngồi một mình bên tường, nghe tiếng nói mê nghẹn ngào của tiểu hài tử, cho đến tận bình minh… Chương 40 Một cái khăn mặt lạnh buốt úp lên mặt Thủy Căn. “A! A!……” Hài tử vẫn còn đang vùng vẫy ở thôn Bốc Vu trong mộng thì bị khăn lạnh phủ lên, cứ tưởng là bị quỷ liếm, sợ đến mức giật nảy lên. Đến khi mở mắt ra và nhìn thấy cái mặt còn khiến người ta tuyệt vọng hơn cả lũ nhân trụ của Thanh Hà Vương, hài tử đã triệt để tỉnh táo. “Đứng dậy mau! Mặc quần áo tử tế vào!” Lần đầu tiên Thủy Căn cảm nhận được hiện thực còn khủng khiếp hơn cả ác mộng, cũng chẳng thừa hơi nói với hắn nữa, thân mình loạng choạng gắng gượng xuống giường. Chưa kịp mặc xong quần áo, đã có người cứ tự nhiên như ruồi mà xông vào. “Chú em Đới Bằng, mấy người đã chuẩn bị xong chưa? Xe đến rồi đấy.” Quảng Thắng vừa vào cửa đã nhìn thấy Thủy Căn quần áo luộm thuộm, gã híp mắt tia từ trên xuống dưới, lập tức minh bạch nở nụ cười đen tối: “Còn đứng dậy được cơ à, hôm qua lăn qua lăn lại lâu thế kia mà! Ồn ào vậy khiêu khích cô bồ của ta lắm đấy! Thiếu chút nữa là kẹp chết ta rồi, ha ha ha……” Nói xong mấy câu đùa thô tục tự cho là hài hước, cả phòng chỉ có mỗi mình gã đứng cười sằng sặc. (Dzô dziên dzễ shợ =.=+) Thủy Căn chưa từng ngờ được rằng cái tên này lại tự dưng ở đâu lòi ra, càng không ngờ tối qua lại có người sát vách nghe được, vừa sợ hãi vừa lúng lúng, xách quần chui ra đằng sau cái bàn. Chờ Quảng Thắng đi rồi, Thủy Căn rón rén đến gần Thiệu như một con chuột đang sợ hãi, hỏi: “Sao gã lại ở đây?” Thiệu nhìn khuôn mặt vừa tức vừa ngượng của hài tử, mặt vô cảm nói: “Vượt ngục!” “Vậy gã bảo chúng ta cùng gã đi làm cái gì?” “Đi lấy của trộm được.” “…” Hai đám người của Thiệu và Quảng Thắng đã tập hợp lại. Nhân lúc trời mới tờ mờ sáng, lái chiếc xe jeep lên đường quốc lộ. Thiệu đã luẩn quẩn trong ngôi mộ kia cả ngàn năm nay nhưng cũng chưa bí bức đến ngu người; hắn vẫn còn nhận ra rằng nếu chỉ dựa vào hắn và tên ngốc Thủy Căn – hai thằng nghèo kiết xác đến mức chỉ có độc cái quần đùi, lại còn đeo thêm cái lệnh truy nã, thì còn khuya mới đến được Thiên trì. Trong khi đó, bọn Quảng Thắng đang trên đường chạy trốn, có tiền lại có xe, không lợi dụng thì hơi phí. Cho nên hắn mới nói xạo với Quảng Thắng rằng, hắn biết rõ cổ vật Thủy Căn trộm ra từ mộ cổ ngày trước được giấu ở chỗ nào. Phải biết rằng vụ án Thủy Căn trộm mộ hồi đó hết sức chấn động đó! Đến cả tù nhân trong trại giam cũng biết kia mà. Cho nên trước lời nói của Thiệu, bọn Quảng Thắng cũng nửa tin nửa ngờ. Chẳng qua là, với mấy tên tội phạm không có tí ý thức pháp luật nào mà nói, sức hấp dẫn của tiền bạc thật khó mà cưỡng lại. Dù sao thì gã cũng cần nhiều tiền để chạy trốn. Ngẫm lại xem, di vật trong cổ mộ đó thậm chí có thể khiến Thủy Căn cấu kết với quản đốc Trương Đại Phúc giết tới mấy mạng người lận, nếu không phải là bảo vật vô giá thì làm sao có thể khiến người ta thấy lợi tối mắt như thế chứ! Kết quả là, một cái nghi mộ vô giá trị qua bao nhiêu lời đồn tin vịt đã lên giá như diều gặp gió. Đến nỗi đào được mỗi cái bô vẫn còn dính nước tiểu mặn mặn mà thổi phồng lên thành mấy lượng vàng lận. Và giờ, khi Đới Bằng dùng việc này làm mồi dụ, bọn Quảng Thắng không thể không cắn câu. Thêm vào đó là cảnh Quảng Thắng nhìn thấy sáng nay. Nếu Thủy Căn đã thông gian với Đới công tử, thì việc cậu tiết lộ ra chỗ giấu báu vật trong lúc đương nồng nàn cũng không có gì lạ. Hiện tại, “Đới” công tử đang trên đường đưa bọn Quảng Thắng đi đào báu vật. Thủy Căn nhìn hàng cây bạch dương bên đường quốc lộ, không thể nhịn được nữa, quay sang lén lút hỏi Thiệu đang ngồi bên cạnh: “Ngươi còn nhớ rõ cô dì chú bác nhà ngươi chôn ở đâu không? Hay là chúng ta dẫn bọn họ đi đào bừa một cái cho đủ số?” Thiệu dữ tợn trừng Thủy Căn. Thủy Căn tức mình, cái tên đệ đệ hãm tài này, cũng khó trách mình kiếp trước đau đớn hạ sát thủ, thật không thể khiến người yêu thích mà . Đầu tiên là rước lấy một vụ kiện cáo còn chưa tính, giờ lại còn giúp một đám tội phạm đào tẩu. Nếu có đồ cổ thiệt thì còn ăn nói được. Thế nhưng cậu biết thừa rằng, lúc đào phần một kia lên, ngoài tổ tông Thác Bạt Thiệu này ra thì nửa cái chén bể gáo sứt cũng chả có, lấy cái gì mà trộm bây giờ hở giời? Đến lúc đó, lại phải đánh một trận ác liệt cho mà xem. Nào máu me, nào tay chân, mới nghĩ đã thấy ghê rồi. Thế mà trông Thiệu vẫn ung dung tự tại lắm, chẳng có vẻ gì là đang lo nghĩ cả, cũng không biết hắn đang tính toán cái gì nữa . Để tránh trạm kiểm soát, xe không đi vào đường cao tốc. Có lẽ đến tối hôm qua cảnh sát mới biết việc đám người Phùng cục trưởng mất tích, vẫn chưa kịp truyền lệnh xuống tất cả các trạm thu phí, nên các trạm vẫn chưa được thông báo. Vì lí do đó, sau khi nhân viên thu phí còn đang ngái ngủ thu tiền xong rồi, một chiếc ô tô màu đen hết sức bình thường đã rời khỏi Hình Đài một cách êm thấm. Rời khỏi trạm thu phí, tài xế lái xe vào một cây xăng, Thiệu kéo Thủy Căn xuống xe. Thằng nhóc này gian như chuột ấy, Thiệu không thể không đề phòng cậu chuồn mất. Còn Quảng Thắng cũng tò tò bám theo sau hai người bọn họ. Coi bộ gã cũng sợ hai tên này chớp thời cơ lủi mất. Thiệu cũng không thèm để ý, sau khi vào trạm xăng, hắn ra quầy bán lẻ gần đó mua mấy túi thức ăn đóng sẵn. Trên tường quầy bán lẻ có dán một tấm bản đồ Trung Quốc. Trong lúc chờ Quảng Thắng trả tiền, Thiệu chăm chú nhìn mấy lượt. Không thể không cảm thán trước kỹ thuật vẽ bản đồ của người hiện đại. Tất cả các thành phố chằng chịt san sát nhau đều được đánh dấu đầy đủ cả. Thiệu nhìn chòng chọc tấm bản đồ một lúc lâu, rồi đột nhiên sáng bừng đôi mắt. Hắn bổ nhào vào quầy hỏi chủ quán: “Có bút không? Mau lấy ra cho ta!” Chủ cửa hàng bị hỏi mà sững sờ, theo phản xạ đưa cho hắn cái bút bi ghi sổ, sau đó trơ mắt nhìn tên kia nhào tới tấm bản đồ, bôi bôi xóa xóa lên bản đồ Tổ Quốc yêu thương. “Ê! Anh làm gì đấy? Ai cho anh vẽ lên đó?”, chủ quán tức giận lách qua quầy hàng đi ra, nhưng Thiệu đã giật tấm bản đồ xuống, và bảo chủ quán: “Ta mua cái này!” Nói xong, hắn đã chạy như bay khỏi cửa hàng. Quảng Thắng ném cho chủ cửa hàng tờ tiền 50 tệ, lúc đấy chủ quán mới thôi chửi bới luôn mồm. Lúc lên xe, sắc mặt Quảng Thắng hết sức khó coi: “Chú em Đới Bằng, chúng ta đang chạy trốn đấy! Làm gì cũng phải cúi đầu, đừng có gây sự chú ý chứ. Có biết xảy ra việc vừa rồi thì bao nhiêu người sẽ nhớ rõ cái mặt chú mày không hả?” Thế nhưng Thiệu chẳng buồn trả lời gã, hắn lấy tờ giấy vệ sinh đã in lại đồ án sau lưng Thủy Căn bữa trước ra, tỉ mỉ so sánh với bản đồ trong tay. Đồ án nhìn tựa chòm sao in dấu trên lưng Thủy Căn và tấm bản đồ hoàn toàn trùng khớp với nhau. Lấy Hình Đài làm điểm xuất phát, đường cong ngoằn ngoèo vừa vặn kéo dài đến Thiên trì ở núi Trường Bạch(1). Thủy Căn đã nhận ra, hóa ra là bản đồ chỉ đường cho bọn họ đến Thiên trì. Thế nhưng, đó vốn là một lộ trình rất đơn giản, chẳng hiểu vì lí do gì bản đồ chỉ dẫn lại rẽ ngang rẽ dọc, lòng vòng quanh co đến thế. (Tức là không đến thẳng Thiên trì mà ghé vào nhiều nơi khác rồi mới đến) Hài tử bỗng cảm thấy nặng trĩu trong lòng; nếu cứ đi theo con đường này, không biết phía trước có điều gì đang chờ đợi bọn họ… (1) Núi Trường Bạch: một ngọn núi nằm giữa biên giới Triều Tiên và Trung Quốc, là đỉnh cao nhất trong dãy núi cùng tên.Hồ Thiên Trì: một hồ miệng núi lửa lớn trên đỉnh ngọn Trường Bạch. Tham khảo wiki, baidu Chương 41 Ngay lúc đó, Thiệu đã nảy ra một ý, giơ tay chỉ về phía tỉnh Sơn Tây, lân cận tỉnh Hà Bắc: “Chúng ta đến nơi đó!” Đối với Thiệu mà nói, Đại Đồng, Sơn Tây là một nơi chẳng hề xa lạ. Từ xưa, nơi đây chính là vùng giao trang của nhà binh, “Tam diện lâm biên, đông liên thượng cốc, nam đạt tịnh hằng, tây giới hoàng hà, bắc khống sa mạc” (theo ta hiểu thì ba mặt đều có biên giới tự nhiên, đông là một khe hang gì đó, nam là Hằng Sơn, tây là Hoàng Hà, bắc thông với sa mạc), vốn được xưng là “Tam đại kinh hoa, lưỡng triêu trọng trấn” (cái này là suy đoán của ta thôi: Đại Đồng là thành thị phồn hoa của 3 đời Tần, Tây Hán, Đông Hán, là trấn quan trọng của thời kỳ Lưỡng Tấn). Điều quan trọng nhất là, Đại Đồng vốn là kinh đô thuở đầu của Bắc Ngụy, chỉ có điều, khi đó có tên là Bình Thành. Sau đó, Thanh Hà Vương kêu Quảng Thắng sai người đi mua về một tấm bản đồ Trung Quốc cụ thể hơn, dựa theo tỉ lệ, lấy thước kẻ phóng to đường chỉ dẫn trông giống chòm sao đó lên bản đồ. Xong xuôi đâu đó, mục tiêu lại càng thêm rõ ràng – chính là nơi cách Đại Đồng 62 km về phía nam – Bắc Nhạc – Hằng Sơn. (tham khảo wiki – đây) Quảng Thắng nằm ườn ra giường trong một quán trọ nhỏ vừa tìm được, nhìn Thiệu bận bịu vẽ vẽ, càng lúc càng nghi hoặc, không nhịn được hỏi một câu: “Chúng ta đến Hằng Sơn không phải để đi du lịch đó chứ?” Thiệu chẳng buồn ngẩng đầu lên: “Ngày trước, sau khi giấu cổ vật đi rồi, Trương Đại Phúc đã vẽ lại bản đồ lên mảnh giấy vệ sinh này rồi đưa cho Ngô Thủy Căn. Bây giờ chúng ta phải dựa vào bản chỉ dẫn này để đi tìm bảo vật.” Thủy Căn dính mỡ đầy miệng đang ngồi gặm đồ ăn sẵn, cùng đống “đồ chơi” này lắc lư dọc đường đi, thành ra tiểu hài tử đã có cái khí chất ung dung thong thả lắm rồi. Cậu đã phát hiện ra vị Thanh Hà vương này nói xạo siêu giỏi, lúc hắn nói dối ấy mà, nhịp tim vẫn đập như thường, chưa bao giờ cần tập trước, cậu cũng chẳng buồn lật tẩy mấy câu ba xạo của Thiệu, nếu không thì kẻ xúi quẩy cuối cùng vẫn cứ là cậu thôi. Ai bảo đời trước cậu thiếu nợ người ta mà làm gì! Trong lúc đó, Quảng Thắng cầm tờ giấy vệ sinh than ngắn thở dài: “Chết tiệt! Thật chưa từng thấy ai lại vẽ bản đồ kho báu lên giấy vệ sinh bao giờ, lão nông dân này đúng là chả chuyên nghiệp tí nào cả!” . . . Cả đám đều là tội phạm bị truy nã, mặc dù vào khu du lịch đông người qua lại, nhưng để che đậy tai mắt người đời, cả bọn vẫn phải đội mũ đeo kính hóa trang cho cẩn thận. Đi trên đường núi Hằng Sơn, dù có trăm mối ngổn ngang trong lòng, mọi người vẫn không khỏi chấn động trước những dãy núi đá Hằng Sơn trùng trùng điệp điệp với quang cảnh thiên nhiên kỳ thú mênh mông. Dù rằng ngày nay, trong Hằng Sơn đã có thêm nhiều trang thiết bị hiện đại xen lẫn với rất nhiều lầu gác chùa cổ, nhưng cấu trúc tổng thể của dãy núi cũng không có nhiều khác biệt so với nơi này hàng ngàn năm trước. Khi còn sống, Thác Bạt Thiệu đã từng đến Hằng Sơn săn bắn du ngoạn vô số lần, nhìn thấy cảnh sắc quen thuộc khiến Thác Bạt Thiệu, kẻ vẫn phải sống trong một thế giới xa lạ từ khi hồi sinh đến giờ, cũng khó có thể kìm nén những xao động trong lòng. Nhìn về phía eo Kim Long ở xa xa, Thác Bạt Thiệu chỉ cho Thủy Căn thấy: “Ngày xưa, ngay tại nơi đây, phụ vương đã cho phá núi mở đường, tạo ra cửa ngõ để ra vào vùng Trung Nguyên đó.” Từ khi rời khỏi thôn Bốc Vu, đây là lần đầu tiên Thanh Hà Vương trò chuyện vui vẻ đến thế với Thủy Căn. Thủy Căn cảm thấy nếu tình cảm giữa hai anh em trở nên hoàn thuận mãi, thì cái mông cậu sẽ được hưởng rất nhiều lợi ích, thế là bèn ra vẻ xúc động cảm thán: “Cha ta thật là lợi làm sao!” Nhưng mặt dày thấy sang bắt quàng làm họ quả nhiên là chả được tích sự gì cả, vẻ xúc động trên gương mặt Thiệu biến sạch, ánh mắt sắc lẻm như dao lia đến, lăng trì tùng xẻo Vương huynh một trận trong im lặng. Thủy Căn ngượng ngùng bỏ đi cái vẻ mặt tươi cười nịnh nọt, và chìm sâu vào sự chán nản với chính mình. Cậu lại cảnh cáo bản thân: kiểu gì thì kiểu, mình sẽ không bao giờ đáp lại tên đại oan gia ngàn năm này nữa! Sau khi dạo qua một vòng, sắc trời đã bắt đầu tối, đám Quảng Thắng đã oải đến không đứng thẳng lưng nổi nữa. Người lúc nào cũng đứng ra đại diện phát ngôn cho cả bọn, Quảng Thắng, đã bắt đầu nghiến răng nghiến lợi: “Chú em Đới Bằng, chú mày không phải đang đùa bọn anh đấy chứ!” Thiệu không nói một lời, tia nhìn của hắn dừng lại ở nơi những vệt nắng cuối cùng của hoàng hôn rơi rớt lại, một góc mái ngói của ngôi chùa được ánh mặt trời chiếu lên nhàn nhạt màu vỏ quýt. Khi trời còn sáng, không ai có thể chú ý đến nơi này, nhưng giờ đây mới nhìn thấy được, mấy tầng mái ngói đỏ rực đã tạo thành những văn tự Tiên Ti thật lớn – “Hãy tới đây.” “Đây là nơi nào?”, Thiệu hỏi Thủy Căn đang cầm tấm bản đồ du lịch. Thủy Căn nhìn ngôi chùa kỳ lạ xây chênh vênh trên vách núi, rồi lại nhìn bản đồ trên tay, và đọc to: “Huyền Không Tự (1).” Theo giới thiệu vắn tắt trên bản đồ du lịch, tuy Huyền Không tự được xây vào thời Bắc Ngụy, nhưng lại là nửa cuối của thời Bắc Ngụy, do một vị hòa thượng tên là Liễu Nhiên dựng nên. Nói cách khác, cả trăm năm sau khi Thác Bạt Thiệu chết, mới có ngôi chùa này, Thác Bạt Thiệu không biết cũng không có gì lạ. Người cho xây dựng ngôi chùa là một hòa thượng, nhưng các thợ xây lại dựa vào yêu cầu “không nghe gà gáy chó sủa” của Đạo gia mà dựng nên Huyền Không Tự. Toàn bộ ngôi chùa treo lơ lửng giữa vách núi cao cao, đình đài lầu các nhô ra như thể được gắn vào vách đá dựng đứng bằng cao su vậy. Tầng tầng lớp lớp cung điện chỉ dựa vào mấy cây cột chống mảnh mai như chiếc đũa mà đứng giữa sườn núi cheo leo. Thậm chí, đến cả thi tiên Lý Bạch, người vẫn yêu thích du ngoạn khắp chốn, để lại vô số ý thơ đẹp, khi đến Huyền Không Tự này, đã phải sững sờ thưởng thức hồi lâu, và chỉ để lại trên vách núi hai chữ súc tích – “Tráng quan.” (Cảnh quan tráng lệ) Lý Bạch cũng thật thông minh, vẻ đẹp kỳ diệu lạ lùng của Huyền Không Tự, quả thực có dùng câu thơ nào để hình dung cũng không đủ nói hết. (Skye: sao ta cảm giác Cuồng tử đang dốc sức quảng bá du lịch nước nhà =..=) Khi đoàn người đi tới con đường phía trước Huyền K