hông Tự, chân họ dẫm lên những tấm ván gỗ cọt kẹt, bên dưới những ván gỗ chính là vách đá sâu vạn trượng. Khi gió thôi ào ào bên tai, có cảm giác như chỉ cần sơ sẩy một chút thôi, là sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm liền. Hướng dẫn viên ở Huyền Không Tự bắt đầu dẫn bọn họ đi tham quan khắp chốn trong chùa. Ngoài địa điểm và cách thức xây dựng mà người thường không thể tưởng tượng ra nổi, trong Tam Giáo điện ở tầng cao nhất của Huyền Không Tự, một khung cảnh còn khó hiểu hơn nữa lại hiện ra trước mắt mọi người: tượng của Thích Ca Mậu Ni, Lão Tử và Khổng Tử được đặt trong cùng một căn phòng. Theo lời giới thiệu của cô hướng dẫn viên, cho tới nay, cảnh tượng ông tổ của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cùng trong một phòng, khắp non sông nước nhà thì chỉ nơi này mới có mà thôi. Một tên thuộc hạ của Quảng Thắng, gọi là Phì Phiêu (Béo ú), mới nói giỡn: “Sao không cho thêm cái tượng chúa Jesus vào nữa nhở! Bốn người gộp lại là vừa đủ làm vài vòng mạt chược rồi còn gì!” Mấy người còn lại nghe thế cũng cười phá lên, đến cả cô hướng dẫn viên cũng lịch sự mỉm cười một cái. Thế nhưng Thủy Căn lại không cười, sau rất nhiều những trải nghiệm không thể tưởng tượng nổi, hài tử giờ đây không dám báng bổ quỷ thần nữa. Trên thực tế, từ khi đến Huyền Không Tự “chân không chạm đất, đầu không đến trời” này, trái tim Thủy Căn không hiểu vì sao cứ thấp thỏm không yên. Thiệu cũng không cười, ánh mắt của hắn cứ chăm chú dán lên bức tượng Lão Tử trên ban thờ, Thủy Căn lần theo tia nhìn của hắn và quan sát cẩn thận, cậu cuối cùng cũng nhận thấy khuôn mặt của bức tượng dường như có gì đó rất quen thuộc. Sau nhiều lần cân nhắc, bất chợt, Thủy Căn đã nghĩ ra đó là ai, và mồ hôi lạnh bắt đầu vã ra như tắm. Mặc dù bức tượng được đắp nhằm làm nổi bật sự vĩ ngạn thần minh của Lão Tử, nên khuôn mặt được khắc họa thật đầy đặn, nhưng gương mặt sáng ngời này lại chính là vị thái tử anh tuấn cậu nhìn thấy ở thôn Bốc Vu – Thác Bạt Tự! Thủy Căn vội vàng phân bua với đệ đệ mình: “Chuyện này không phải do ta làm đâu nhá, ngươi nghe thấy rồi đó, chùa được xây vào nửa sau thời Bắc Ngụy mà, khi đó ta chết lâu rồi còn gì…” “Câm miệng!” Hai chữ ngắn gọn, Vương huynh tắt điện ngay tắp lự. Ánh mắt Thác Bạt Thiệu cuối cùng cũng rời khỏi bức tượng Lão Tử, và chuyển sang quan sát hai bức tượng còn lại. Thủy Căn không nhận ra hai bức tượng này, chứ Thiệu lại quen thuộc vô cùng. Trong đó, gương mặt của Khổng Tử vô cùng giống khai quốc công thần của Bắc Ngụy – Yến Phượng. Yến Phượng, tự Tử Chương, khi còn trẻ thích đọc sách, đã đọc qua đủ loại kinh thư sử tịch, đặc biệt am hiểu thuật âm dương và sấm vĩ. Về sau, ông đã phụ tá vị quốc chủ khi ấy còn nhỏ tuổi, Đạo Võ đế Thác Bạt Khuê. Thác Bạt Khuê khi còn nhỏ tuổi đã có thể giữ được mạng sống(thì như kiểu Khang Hy ý), cho nên về sau lão đã giương roi thúc ngựa, rong ruổi chiến trường nam bắc, mở rộng vương triều Bắc Ngụy, là công lao không thể phủ nhận. Vì vậy, cho dù về sau, do dùng Hàn thực tán mà tính khí Thác Bạt Khuê trở nên thất thường, nghi kỵ thành tính, sử sách đối với lão ta vẫn muôn vàn kính trọng. Còn vị khai quốc trung thần đã đọc đủ kinh thư trên đời nọ, cũng vô cùng tán thưởng người kế vị Ngụy Vương – Thác Bạt Tự, thậm chí còn bất chấp tuổi tác đã cao, đích thân giảng giải cho Thác Bạt Tự những bài học quan trọng. Thế nhưng, về phần Thác Bạt Thiệu, ông lại không thích nói nhiều, ngoại trừ những lễ nghi tối thiểu; có thể nói, ông coi thường kẻ phóng túng bừa bãi trong hoàng thất này. Và Thác Bạt Thiệu cũng rất ghét lão đầu đạo mạo đó. Còn bức tượng Phật còn lại, nhìn thế nào thì Thiệu vẫn thấy người đó giống hệt thị vệ thân cận của Thác Bạt Tự ngày trước – Vương Lạc Nhi. Thiệu lại bắt đầu nghiến răng. Ngày đó, khi mẫu thân bị đâm chết vì Vương huynh được sắc phong thái tử, y đã khóc lóc trong cung suốt ba ngày ba đêm. Còn phụ vương thân yêu của họ lại đang rất nóng nảy vì ăn Hàn Thực tán! Lúc đầu, lão cha còn tử tế an ủi nhi tử của mình kìm nén đau thương mà nhìn về tương lai tốt đẹp phía trước. Về sau, từ phụ cũng phải nản, dứt khoát cho mời thái tử đến cung mình. Thác Bạt Tự nghe được tin rằng trước khi phái người gọi y đến, phụ vương đã hạ lệnh chém đầu cả nhà một vị đại thần chẳng mắc một lỗi lầm nào. Y đã lập tức đánh hơi được điều không ổn, bèn thu dọn hành lý, mang theo thị vệ Vương Lạc Nhi mở đường tẩu thoát. Sau đó, y ở lại nhà của Vương Lạc Nhi, trong một sơn thôn nhỏ gần Bình Thành. Y định ở đó một thời gian, chờ đến khi phụ vương nguôi giận rồi sẽ tìm một thời cơ thích hợp để chở về. Chỉ có điều, thời cơ còn chưa đến, hắn – Thác Bạt Thiệu, đã gây ra cung biến. Sau khi đâm chết phụ vương, hắn lập tức phái người bí mất điều tra nơi ẩn nấp của Thác Bạt Tự, với ý định nhổ cỏ tận gốc. Hắn lại không ngờ rằng, nhờ sự trợ giúp trung thành và tận tâm của Vương Lạc Nhi, Vương huynh đã âm thầm về đến Bình Thành, liên hệ với các vị trọng thần trong triều, rồi nổi dậy phản công, và khiến hắn rơi vào kết cục “sắp thành lại bại”. Giờ đây, ba kẻ thù của kiếp trước lại thành tiên thành Phật, một thân sơn son thiếp vàng ngồi trên ban thờ cao cao khinh thường nhìn xuống hắn. Lòng uất hận của Thanh Hà Vương lại dâng lên! Hắn xông lên ban thờ, dốc sức lung lay tượng Phật, chỉ muốn đẩy ngã bức tượng xuống để cả ba vị phải thịt nát xương tan. Hành động của Thiệu hoàn toàn vượt ngoài dự đoán của tất cả mọi người. Cô hướng dẫn viên lập tức hét lên: “Anh kia làm gì vậy! Mau dừng lại!” Thấy tiếng quát của mình không thể làm vị du khách như đang phát điên lên này dừng tay, cô bèn xoay người chạy ra khỏi đại điện gọi người tới. Khi cô hướng dẫn viên và mấy anh bảo vệ trẻ tuổi chạy vào đến nơi, thì trong đại điện đã không còn một bóng người nữa rồi. Ngoài việc tượng Phật trên ban thờ hơi bị nghiêng đi và con mắt của bức tượng giờ lại nhìn về phía Lão tử, không còn điều gì kỳ lạ nữa. Mấy người bảo vệ tìm từ trong ra ngoài đến mấy lần. Trời đã nhá nhem, cũng không còn mấy du khách trong Huyền Không Tự nữa. Bảo vệ còn hỏi cả nhân viên bán vé ngồi ở cửa, nhưng cũng chẳng có người nào rời khỏi ngôi chùa cả. Cứ như thể, mấy người đàn ông đeo kính đen ấy cứ như đã nhảy xuống khỏi vách núi, biến mất không một dấu vết. ———————————- (1) Huyền Không Tự được xây dựng vào năm 491 (năm Thái Hoà thứ 14) dưới thời Cao Tông Hiếu Văn Đế Chương 42 Lúc này, một vị lão hoà thượng trong chùa từ cửa đi vào, trèo lên ban thờ để kiểm tra xem tượng Phật có bị hư hại gì không, rồi chậm rãi chỉnh bức tượng ngay ngắn lại; trong khi đó, mấy anh bảo vệ còn đang lục xoát tìm kiếm từ trong ra ngoài vài lượt, ấy vậy mà vẫn không tìm được mấy người du khách kia. Bảo vệ đoán rằng những người đó nhất định là đã thừa dịp người khác không để ý mà trèo xuống khỏi Huyền Không Tự mất rồi. Giờ mở cửa đã hết, du khách đã đi cả rồi, hệ thống báo động cũng đã được bật lên, chỉ còn lại vị hoà thượng già cả tiếp tục gõ mõ cầm canh. Toàn bộ Huyền Không Tự được bao trùm trong một mảnh tĩnh lặng xa cách khỏi nơi phàm trần… . . . Kỳ thực, từ lúc Thiệu lao vào lay đổ bức tượng đá, Thuỷ Căn đã biết rằng mọi chuyện sẽ không ổn rồi. Giống như một bộ phim đến hồi gay cấn, nếu không có động đất thì nhất định sẽ có núi lở. Cho nên khi những người khác đều đứng đần ra mà nhìn, Thuỷ Căn lại bám theo cô nàng hướng dẫn viên chạy ra bên ngoài. Hài tử cũng thật lanh lợi! Thế nhưng, vừa bước ra cửa và rẽ phải, một cái gì đó có hình người đen thùi lùi treo ngược phía trên đùng một cái xuất hiện trước mặt cậu. Khả năng thích nghi của Thủy Căn rất mạnh mẽ. Từ sau cái lần đụng độ nhân trụ tử mẫu ở thôn Bốc Vu, cậu vẫn luôn khổ luyện kỹ thuận rẽ ngoặt, mỗi khi đi qua một góc tường, cậu đều đề khí tập trung tinh thần. Nhưng lần này cậu đã rẽ quá vội vàng, nên khi cái hình người đen sì sì rơi xuống, Thuỷ Căn sợ đến câm họng luôn, theo phản xạ thụt lùi lại phía sau, và vấp trúng bậc cửa. Ngay cả Thiệu đang ra sức đẩy bức tượng cũng phải dừng lại để nhìn cậu, và đúng lúc này, một chuyện ngoài ý muốn đã xảy ra. Bởi vì sự rung chuyển dưới phần đế, cái bệ vững chắc của bức tượng Phật bỗng long ra. Bức tượng tự động xoay tròn như một con lật đật, bệ của hai bức tượng còn lại dường như nối liền với nhau, và cũng bắt đầu rung chuyển theo. Trong tiếng xích sắt loảng xoảng, trên bức tường phía sau tượng đá xuất hiện một cái động hình vuông rộng khoảng một thước. Trong khi đó, con quái vật treo ngược ở cửa thoắt cái đã lủi vào trong động, nhanh như một con báo. Tất cả mọi chuyện xảy ra quá chóng vánh, đến nỗi ngay cả Thiệu cũng không kịp phản ứng. Hắn quay đầu nhìn Thuỷ Căn: “Thấy rõ là vật gì không?” Thuỷ Căn lấy lại bình tĩnh, nuốt nước bọt nói: “Là… hình như là Phùng cục trưởng.” Cái mùi thịt nướng xộc thẳng vào mũi này thật sự là quá quen thuộc. Coi bộ ánh trăng làm đẹp ở thôn Bốc Vu cũng có hiệu quả đấy chứ, Phùng cục trưởng vẫn còn đeo cái khuôn mặt bị huỷ hoại thảm thương ấy mà. Chỉ có điều, làm thế nào hắn thoát khỏi thôn Bốc Vu, cách xuất hiện quỷ dị ban nãy và tốc độ vượt khỏi giới hạn của con người ấy là sao, tất cả đều thật khó hiểu. Thiệu lập tức nhăn mày, suy tư mà nhìn đường hầm bí mật. Lúc đó, một mình Quảng Thắng đã xông lên, chui vào trong động. Thấy bọn Thiệu vẫn còn ngây người ra đó, gã sốt ruột: “Nhanh lên đi! Không thấy có người đã vượt lên trước rồi sao?” Lão đại đúng là lão đại, một thân lệ khí, tin chắc rằng dù là người hay là quỷ thì cũng phải kính gã ba phần. Quan trọng nhất là, tới tận bây giờ gã vẫn kiên quyết giữ vững chủ nghĩa vô thần, và thêm vào đó, gã cũng chẳng nhìn thấy rõ thứ vừa đi vào là cái quái gì, nên lại càng tò mò dữ. Thiệu nhảy từ trên bệ đá xuống, xách Thủy Căn vẫn còn đang nằm sóng soài trên mặt đất lên, nở nụ cười giả tạo: “Lại muốn chạy hả?” Thuỷ Căn còn chưa tỉnh lại từ nỗi kinh hoàng, ngơ ngác gật đầu, lại lắc đầu. Trong đầu cậu chỉ còn lại một ý nghĩ: Phùng cục trưởng còn chưa chết sao? Hành lang của Huyền Không Tự treo lơ lửng giữa không trung, nhưng trên thực tế, chính điện lại được tạc trên vách đá, khảm sâu vào trong núi. Chỉ có điều, không ai ngờ được rằng động lại lồng trong động, bên trong lại có một đường hầm bí mật nữa. Lại nói tiếp, mặc dù Quảng Thắng xuất thân từ xã hội đen, nhưng so với Phùng cục trưởng kia thì còn quang minh chính đại hơn nhiều, đối mặt với hang núi tối đen như mực, vậy mà gã cũng dám dẫn đầu chui vào. Sau khi tất cả mọi người lần lượt vào động rồi, mấy người bọn họ mới lom khom đi được vài bước, bức tượng đã từ từ đứng vững lại, tiếng xích sắt im bặt, phiến đá nơi cửa đường hầm lập tức khép lại. Mấy người phía sau cuống quít quay lại đẩy, nhưng dù có ra sức đẩy thế nào nó cũng chẳng hề nhúc nhích. Quảng Thắng sốt ruột nói: “Bây giờ quay lại để chờ bị bắt à, trước tiên cứ xem tình hình bên trong thế nào đã, rồi sẽ tìm cơ hội ra ngoài sau.” Rồi gã móc một cái bật lửa từ trong túi ra, nương theo ánh sáng yếu ớt đi về phía trước. Không gian khép kín này không có tí mùi ẩm mốc nào, dường như vì không khí thường xuyên lưu thông. Sau khi đi được ước chừng hai phút, Quảng Thắng bỗng ngừng bước. Trong không gian chật chội này, tất cả mọi người đều đi theo hàng một; khi Quảng Thắng dừng lại, Thuỷ Căn ở đằng sau cũng dừng lại, nhưng lại bị người phía sau húc vào, chỉ nghe thấy tiếng bì bõm, Quảng Thắng ở phía trước hình như đã giẫm xuống nước mất rồi. Những người phía sau nghe thấy thế nên dĩ nhiên cũng dừng bước chân. “Phía trước xảy ra chuyện gì vậy?” Thiệu cao giọng hỏi. Thuỷ Căn căng thẳng chống tay lên vách động, run rẩy nói: “Phía… phía trước hình như có vũng nước…” Học trò Ngô Thuỷ Căn vốn không biết bơi, hơn nữa ở thôn Bốc Vu xém chết đuối, cho nên vừa nghe thấy tiếng Quảng Thắng bước xuống nước, cậu đã run bắn lên rồi. Không một tia sáng, trong bóng đêm mọi người nghe thấy tiếng đạp nước “lõm bõm” thì đều trợn mắt nhìn nhau. Thiệu cân nhắc một xíu rồi giơ tay lên, một đám ma trơi xanh thẫm bay vút lên. Ma trơi bay về phía trước, chiếu rọi cả hang động sáng rực lên. Vừa thấy thế, vài tên thủ hạ của Quảng Thắng đã mắt chữ A mồm chữ O, ngơ ngác nhìn nhau. Lúc này, nương theo ánh lửa của ma trơi, Thuỷ Căn cuối cùng đã thấy rõ quang cảnh phía trước. Vũng nước cái gì chứ? Rõ ràng là một hồ nước lớn ánh lên một màu xanh thăm thẳm dưới ngọn lửa ma trơi, trong khi đó, Quảng Thắng không hề nao núng tiến lên, đạp nước bì bõm. Nương theo ánh lửa, Quảng Thắng đã nhận ra phương hướng, nhọc nhằn bơi trở lại, và bò lên bờ dưới sự giúp đỡ của Thuỷ Căn. Sau khi nhìn rõ cảnh vật chung quanh, mọi người mới phát hiện ra cuối đường hầm có một bậc thềm dài khoảng ba thước, nhưng rất hẹp, chỉ rộng có nửa thước. “Đây… đây là đèn Khổng Minh?” Quảng Thắng nhổ hai bãi nước bọt, kinh ngạc chỉ vào ma trơi mà hỏi. Thuỷ Căn gật đầu, rồi xoay người hỏi tên đã thả đèn ra: “Bây giờ chúng ta phải làm gì đây?” Sau khi mọi người đã xúm xít đứng trên bậc thềm và nép sát vào vách đá, Thiệu nhìn hồ nước dưới chân Quảng Thắng rồi hỏi: “Nước có sâu không?” Quảng Thắng còn đang kinh ngạc nhìn cái “đèn” trên đầu, nghe Thiệu hỏi như vậy bèn đáp: “Sâu, chân không chạm đáy, nước lại mặn nữa.” Thiệu dùng mắt ước lượng, khoảng cách từ đây đến bờ hồ bên kia áng chừng một trăm thước, người bơi giỏi có thể bơi một mạch sang bờ bên kia cũng không thành vấn đề. Hắn ngồi xổm xuống, lấy tay ngoáy ngoáy nước trong hồ, hơi lạnh nhưng có thể chịu được. Vậy là hắn cởi áo khoác ra, rồi nói với những người còn lại: “Ta đi trước xem thế nào đã, các ngươi chờ ở đây.” Quảng Thắng nói: “Để ta đi với ngươi.” Trong vách đá giữa sườn núi tự dưng lại lòi đâu ra một hồ nước mặn? Kỳ cảnh chỉ có trong ngàn lẻ một đêm này khiến lão đại bắt đầu hưng phấn; gã cảm thấy giữa tầng tầng lớp lớp những cơ quan huyền diệu này mà không giấu chừng mười rương kho báu, thì đúng là phụ công lao người đào động rồi! Sau khi Thiệu và Quảng Thắng nhảy vào hồ nước, Thuỷ Căn và ba tên thuộc hạ của Quảng Thắng đứng ở trên bậc thềm dõi theo. Đột nhiên, Thuỷ Căn nghe thấy trên đầu có tiếng “sột soạt” vang lên. Cậu vừa ngẩng đầu nhìn, đã thấy Phùng thịt nướng đang nằm úp sấp trên vách động trong một tư thế kỳ dị như của loài nhện, nhe ra cái mặt cười dữ tợn với Thủy Căn. Và từ giữa những khe nứt trên lớp da bị thui cháy của hắn, từ từ bò ra rất nhiều nhục trùng gần như trong suốt, to cỡ ngón tay, dọc theo vách tường bò xuống. Một con trong số đó rớt thẳng từ vách tường xuống, rơi ngay chóc vai Thủy Căn; cảm giác đau nhói như bị kim đâm truyền tới, thân thể cậu bỗng trở nên tê dại như bị đánh thuốc mê. Trong khi đó, sau khi hút no máu cậu, con bọ nằm vắt trên vai Thủy Căn đang không ngừng lớn lên, và rồi phần đuôi nó bắt đầu tiết ra sợi tơ quấn lấy cậu. Càng lớn lên, loài bọ này trông càng giống một loại sinh vật… “Băng tằm!” Trong đầu Thuỷ Căn lóe lên một ý nghĩ. Nhân lúc nọc độc chưa làm thần kinh tê liệt hoàn toàn, cậu dốc sức buông người về phía trước, và “ùm” một tiếng rơi xuống hồ nước. Còn hai người khác trên bậc thềm, khi bị trùng đột kích, đầu tiên là lấy tay gạt xuống, kết quả là còn chưa kịp kêu lên, họ đã bị càng lúc càng nhiều băng tằm hút máu rồi quấn lấy, trói chặt trên vách tường, chỉ trong chốc lát đã bị hút cạn chỉ còn da bọc xương. Khi xuống nước, Thủy Căn cố gắng nín thở, nhưng nước hồ vẫn xộc vào miệng vào mũi cậu, còn con băng tằm đang bám riết lấy vai cậu dường như rất sợ nước mặn, nó liền nhả ra, đau đớn giãy dụa vài cái trong nước, rồi cứng đơ chìm xuống đáy hồ. Ngay khi Thuỷ Căn cũng sắp sửa chìm xuống, bỗng có người túm lấy cậu, và nâng gáy cậu lên. Nhờ nước mặn rửa sạch miệng vết thương đang chảy máu, cảm giác tê dại lúc trước giảm đi ít nhiều. Thuỷ Căn ra sức ho khan, khạc hết nước trong mũi miệng ra. Cậu quyết định rồi, nếu có thể sống sót, chuyện đầu tiên cậu sẽ làm chính là đổi tên, đặt là “Nghiêu căn” thì hơn, mịa nó, cứ suốt ngày xung khắc với nước! (Nghiêu: núi cao) Cậu hơi ngẩng đầu lên nhìn, hoá ra là Thiệu đã quay trở lại. Hắn đang đạp nước, túm cậu bơi sang bờ bên kia mà! Vừa nãy hắn rõ ràng đã bơi đi rất xa rồi, ấy thế mà thoắt cái đã bơi trở lại rồi, còn trâu bò hơn cả Micheal Phelps ý chớ! Tựa trên vai Thiệu, không hiểu sao Thuỷ Căn lại cảm thấy thật an lòng, kìm lòng không đặng dụi dụi đầu lên cổ Thiệu. Dù đã ướt nhẹp, mấy cọng tóc lông cừu loăn xoăn của Vương huynh vẫn cứ vểnh lên chọc thẳng vào mũi vào mồm Thiệu. Thanh Hà Vương tức giận nhéo cổ cậu một phát: “Nằm im! Nhõng nhẽo với ta làm cái gì!” Thuỷ Căn bị sặc nước đến đau cả họng, nhất thời nói không ra lời, nhưng cũng vì hành động ban nãy của mình mà ngượng chín người, mặt đỏ bừng y chang cái mông khỉ. Cậu ngoan ngoãn dựa vào Thiệu, ánh mắt đương nhiên nhìn về phía Phùng cục trưởng ở cửa đường hầm, và thấy hắn cũng từ trên vách động bò xuống. Kéo ba cái xác đã thành thây khô lại gần nhau, rồi ép băng tằm tiếp tục nhả tơ. Sau đó, hắn buộc chặt mấy cái thây khô lại, ném xuống nước; xác khô bị tơ băng tằm bao bọc, nhẹ nhàng nổi lềnh bềnh trên mặt nước như một cái bè. Rồi hắn nhảy lên xác khô, chân đạp mạnh một cái, bơi về phía trước. Coi bộ lớp da cháy khét lèn lẹt của Phùng cục trưởng cũng sợ nước mặn, vì thế hắn mới núp trên vách động, loay hoay tìm cách vượt qua hồ. Thuỷ Căn theo dõi toàn bộ quá trình Phùng cục trưởng chế tạo “bè da”, mà cảm thấy mục tiêu “thành tiên” của Phùng cục trưởng có lẽ đã đạt được rồi không biết chừng. Đường đường là một cục trưởng, thế mà có chỗ nào giống người? Thứ duy nhất còn sót lại trên người hắn có lẽ chỉ là ý nghĩ ác độc muốn cướp đoạt tính mạng của người khác hay giẫm đạp lên thi thể của người khác để đạt được mục đích mà thôi. Đúng lúc này, nước dưới chân bọn họ bỗng dâng lên từng đợt sóng, một bóng đen khổng lồ ùn ùn kéo tới chỗ họ… Thiệu cau mày, khẽ nói: “Không ổn rồi!” Chương 43 Khi bóng đen kéo tới cùng những đợt sóng lớn và dường như cùng cả tiếng rống của quái thú, Thiệu kéo Thủy Căn bơi thật nhanh về phía trước. Thuỷ Căn xụi lơ, chỉ còn biết trừng mắt nhìn xem thứ đang nổi lên ấy rốt cuộc là quái vật gì. Giữa bọt nước tung tóe, thứ đó cuối cùng cũng lộ ra bộ mặt thật. Thì ra đó là một cây cột hình trụ đường kính tới hai mét, lao thẳng lên từ đáy nước, nếu nhìn không kỹ, có khi còn tưởng là Đông Hải Thần Châm của con khỉ họ Tôn ấy chớ! Trên thân cột khắc hình một ngưu đầu trấn tà thú đã từng thấy ở nghĩa địa Quân Sơn, con mắt mở to như cái chuông đồng đang ngạo nghễ coi thường bọn họ. Và tiếng rống vừa rồi hình như phát ra từ chính cái mồm đang ngoác ra của ngưu đầu. Thiệu sửng sốt nhìn trấn tà thú, dường như hắn cũng không đoán ra được cây cột này dùng để trấn áp thứ gì. Mặt hồ vốn tĩnh lặng không một gợn sóng, có lẽ do người rơi xuống đã khuấy động nước hồ, kích khởi then chốt nào đó dưới đáy nước, và khiến cây cột vọt thẳng lên. Trên đỉnh cây cột khảm một cái hộp tám cạnh, không rõ được làm bằng gì. Dưới ánh nước khúc xạ, mặt hộp tỏa ra những luồng sáng lấp lánh rực rỡ. Phùng thịt nướng cưỡi “bè da” ở gần cây cột nhất, vừa thấy cây cột mọc lên một phát là vọt tới liền, cố sức móc cái hộp nọ ra, rồi quay trở lại cái “bè da”. Sau đó, hắn dùng bộ da người gói bản thân lại như thể quấn nem, và dùng băng tàm bịt kín các kẽ hở. Cả bộ da bao bọc lấy Phùng thịt nướng như cái kén tằm khổng lồ, bồng bềnh trên mặt nước. Thuỷ Căn buồn bực nhìn Phùng cục trưởng chuẩn bị, cây cột thiếu mất cái hộp bắt đầu rung chuyển và từ từ hạ xuống. Và rồi, miệng ngưu đầu trấn tà thú lại ngoác rộng hơn, từ trong đó phun ra rất nhiều những sợi dây. Sau khi rơi xuống hồ, những sợi dây nọ nhanh chóng hút nước và trương phồng lên như thể hoàng hoa thái(1) phơi khô. Thuỷ Căn chẳng thấy tò mò tẹo nào, chỉ ra sức gào lên với thằng em của cậu: “Ngươi bơi nhanh lên một chút coi!” Thiệu vừa hổn hển kéo cậu đi, vừa dữ dằn nói: “Ta phải kéo cái đồ ăn hại nhà ngươi thì làm sao mà bơi nhanh được hả?” Những sợi dây vừa trương phình lên dập dềnh trong nước chưa tới một phút, đã lập tức bắn về phía bọn họ như những mũi tên, phần lớn trong số đó là lao về phía Thủy Căn. Thiệu biết rõ rằng mùi máu tươi từ vết thương của Thuỷ Căn đã mời gọi những sợi dây dường như không nhìn thấy được này tới. Thiệu hơi nhún người, rồi vung tay lên ném Thủy Căn sang bờ hồ bên kia. Những sợi dây còn lại bèn đánh về phía Thiệu, Quảng Thắng và Phùng kén nhộng. Bởi vì cái kén khổng lồ sát cây cột nhất, vài sợi dây đã lẻn đến gần nó rồi. Từ một đầu của