ất tốt. Nói y là quỷ thì hơi vô lý. Hay là y bị quỷ nhập vào người?” Sư phụ nói: “Vừa nãy bần đạo có dán một lá bùa Phá Tà vào người y. Nếu trong người có bất kỳ thứ gì không sạch sẽ, y sẽ đau đớn khủng khiếp. Nhưng nãy giờ bần đạo để ý thấy, ngay cả một cái nhíu mày y cũng chẳng có. Chẳng lẽ quỷ nhập vào y rồi lại chui ra ngoài? Kể cả như vậy trên người y chắc chắn cũng phải lưu lại một số dấu vết của âm khí hoặc oán khí chứ?” Minh Khánh trả lời: “Sư phụ có khi nào không phải do quỷ không? Tà vật cũng có thể phá hỏng bùa chú.” Sư phụ gật đầu rồi hỏi bộ đầu Chín Ngón: “Lúc ở nhà trọ về, bộ đầu có mang theo vật gì về không?” Bộ đầu Chín Ngón nhìn vào bên hông nói lắp bắp: “Kiếm … thanh kiếm….” Sư phụ gỡ thanh kiếm bên hông của y ra, vừa cầm trên tay thì lại đánh rơi. Minh Khánh cúi người nhặt hộ thì thấy sư phụ quát: “Không được sờ vào!” Minh Khánh thấy sư phụ mặt tái xanh, đôi mắt lộ vẻ sợ hãi tột độ. Trước đến giờ chưa bao giờ Minh Khánh gặp sư phụ sợ hãi đến thế. Quan huyện và mọi người thấy vẻ mặt nghiêm trọng của sư phụ, cũng bắt đầu lùi ra xa khỏi thanh kiếm. Sư phụ lúc này bắt đầu lôi trong người ra một đống bùa chú đủ các loại. Ông cẩn thận dán đủ thứ bùa lên thanh kiếm. Sau đó bắt đầu ngồi xếp bằng, nhắm mắt đọc Tịnh Tâm Chú. Lúc này sư gia cũng đã vào đến, thì thầm với quan huyện cái gì đó. Sau đó sư gia tiến đến bên Minh Khánh hỏi nhỏ: “Đạo trưởng đang đọc thần chú phá tà ma sao?” Minh Khánh trả lời: “Không phải, sư phụ đang đọc Tịnh Tâm Chú. Một loại đạo chú để làm thanh tịnh tâm hồn..” Sư gia lại hỏi: “Đạo trưởng bị tà ma nhập vào?” Minh Khánh đáp: “Không biết. Hẳn là không phải.” Hắn đang lo cho sư phụ nên trả lời cụt lủn. Một lúc sau , sư phụ mới mở mắt ra. Ông nói: “Tất cả mọi người ngồi xuống đi.” Quan huyện, sư gia và nhũng người khác bắt đầu ngồi xuống vòng quanh ông và thanh kiếm. Sư phụ bắt đầu kể về lai lịch của thanh kiếm. “Thanh kiếm này có tên là Tuyệt Tử Tuyệt Tôn Huyết Chú Ma Kiếm. Thanh kiếm này xuất hiện vào khoảng bốn đến năm trăm năm trước, vào thời chiến tranh của người tu đạo. Người tu đạo đánh nhau không phải giống như người thường, dùng gươm giáo, đao kiếm đánh chết đối thủ. Bọn họ đánh nhau sử dụng các loại trận pháp, các loại đạo chú. Bọn họ còn mượn sức âm binh, các loại ma quỷ, yêu quái. Nhưng thứ vũ khí đặc biệt nhất, độc ác nhất, khó lường nhất chính là những lời nguyền. Thanh kiếm này chính là một dạng lời nguyền như thế.” “Chủ nhân của thanh kiếm này là một vị tu đạo tài năng của phái Thiên Ân nằm trên núi Bạch Liên ở vùng Tây Bắc. Lúc chiến tranh xảy ra , ông ta đang bắt quỷ ở vùng biên giới. Lúc ông ta trở về, môn phái của ông ta đã bị tiêu diệt hết. Lòng thù hận đã biến một người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết thành một kẻ lạnh lùng và tàn ác bậc nhất trong lịch sử người tu đạo. Ông ta trở lại vùng biên giới, săn tìm vua quỷ trong truyền thuyết của loài hút máu. Nhờ may mắn cùng với tài năng, ông ta tìm được và giết chết vua quỷ.” “Ông ta dùng răng năng của nó là lưỡi kiếm, dùng xương cốt của nó làm chuôi, dùng trái tim của nó để làm điểm nối. Chưa hài lòng , ông ta trở về thu thập những thanh vũ khí dính máu trên các chiến trường cổ xưa, bắt đầu rèn cho thanh kiếm một cái vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ. Thanh kiếm đã hình thành, ông ta tiếp tục ngâm thanh kiếm trong máu thu thập được của một ngàn người khác nhau, đồng thời cắt máu ở tay ra để nuôi nó. Công việc cuối cùng của ông ta là hiến tế linh hồn chính mình cho thanh kiếm.” “Sau đó theo kế hoạch đã được sắp sẵn, một người bạn lấy thanh kiếm và gửi nó cho những người đã tiêu diệt môn phái của ông ta. Và thanh kiếm đã trở thành một trong những lời nguyền khủng khiếp nhất trong vòng hai trăm năm. Người ta đã ước tính nó giết chết khoảng nửa vạn người tu đạo lẫn con cháu của họ, khiến hàng chục môn phái, hàng trăm dòng họ biến mất trong lịch sử. Mãi cho đến khi dòng họ của người bạn ông ta cũng bị tuyệt hậu, người ta mới phát hiện ra thanh kiếm và lời nguyền nhờ một quyển nhật ký. Cái tên Tuyệt Tử Tuyệt Tôn Huyết Chú Ma Kiếm là do những thế hệ người tu đạo sau này đặt cho nó. Thanh kiếm bị phong ấn ở một nơi bí mật để không ai có thể tìm được nó nữa.” Nghe xong tất cả mọi người đều im lặng. Quan huyện là người đầu tiên đặt câu hỏi: “Theo đạo trưởng vậy tại sao thanh kiếm lại tái hiện ở nhân gian?” “Bần đạo không biết. Có lẽ đã gần ba trăm năm, phong ấn bị mài mòn, thế rồi có người tìm thấy thanh kiếm này. Người bình thường không ai có thể cưỡng lại được ước muốn của thanh kiếm.” Bộ đầu Chín Ngón lúc này vẫn bị trói gô như bánh tét, bất ngờ lên tiếng: “Tôi nhớ rồi. Lúc tra xét trong phòng của một người khách trọ, tôi đã tìm thấy nó. Tôi có hỏi người khách đó, y làm nghề bắt cá ở hồ Đàn Gỗ. Hôm đó y lặn xuống nước mò cá thì tìm được thanh kiếm, đang định mang ra chợ đổi lấy gạo. Sau đó tôi tuốt kiếm ra xem thì thấy nó đẹp quá, bèn giấu làm của riêng.” Quan huyện tức giận mắng: “Đồ khốn. Chỉ vì lòng tham của mày nên mới có tận năm người chết.” Sư phụ nói: “Không phải lỗi của hắn. Lúc nãy khi bần đạo chạm vào thanh kiếm, trong lòng bần đạo chỉ có một ý nghĩ duy nhất, chiếm đoạt thanh kiếm làm của riêng. Rất may bần đạo buông tay kịp thời. Giờ bần đạo mới hiểu tại sao thanh kiếm này là một trong những lời nguyền khủng khiếp nhất trong lịch sử. Nó ảnh hưởng đến những suy nghĩ trong lòng người cầm kiếm mà bọn họ cũng chẳng hề biết. Bần đạo đoán lúc bộ đầu Chín Ngón đâm người, khiến thanh kiếm hút máu thỏa thuê, hắn cũng chẳng biết gì.“ Bộ đầu Chín Ngón đáp: “Trước lúc đạo trưởng bắt tôi, tôi đang nằm mơ đánh quỷ. Tôi đang dùng kiếm đâm con quỷ con thì con quỷ mẹ xuất hiện, gầm gào một tiếng khiến tôi giật mình tỉnh giấc. Sau đó thì đạo trưởng ra lệnh úp mặt vào tường.” Sư phụ gật đầu rồi sai người cởi trói cho bộ đầu. Quan huyện và sư gia nghĩ hắn mặc dù có đâm năm người khác thật, nhưng cũng trong tình trạng chẳng biết gì, nên cũng đồng ý. Vụ án kết thúc trong lặng lẽ. Quan huyện ra lệnh cấm tiết lộ tin tức ra bên ngoài. Bộ đầu Chín Ngón bị thuyên chuyển sang huyện khác. Sáng hôm sau, chỉ có sư gia tiễn sư phụ và Minh Khánh lên đường. Lão nhét cho sư phụ năm mươi lượng bạc công đức của quan huyện. Sau này, mỗi khi gặp vụ án nào dính dáng đến ma quỷ, quan huyện lại sai người lên núi Hoàng Lĩnh mời người của phái Phổ Linh xuống giúp đỡ. Bây giờ , mặc dù đã leo lên đến chức Chuyển vận sứ đứng đầu một châu ở ngoài Bắc, y vẫn thư từ thường xuyên với Minh Khánh. Một tiếng sấm ì ùng cắt đứt dòng suy nghĩ của Minh Khánh. Hắn nhìn ra bên ngoài cửa sổ, lúc này trời vẫn mưa như trút nước. Hắn xuống giường lục chiếc gùi vẫn mang theo bên người, lấy ra chiếc hộp gỗ sơn đỏ to nhất. Minh Khánh mở nắp hộp, bên trong là một thanh kiếm kỳ lạ. Chuôi kiếm có hình chiếc xương. Phần nối là một đám đường cong xoắn vào nhau, trông như những đường gân ngoằn ngoèo, bao quanh lấy một viên bi tròn tròn màu đỏ sẫm. Lưỡi kiếm mỏng và ngắn, sáng ngời trong đêm tối. Minh Khánh cắn ngón tay, rồi nhỏ mấy giọt máu lên thân kiếm. Máu của hắn như nước rơi xuống sa mạc, bị lưỡi kiếm hút sạch không còn một dấu vết gì. Chương 11: Bác Hà Phi là một người rất vui tính và tốt bụng. Trong làng ai cũng quý mến bác. Cứ thấy bác là mọi người đều niềm nở chào hỏi. Nhưng hôm nay ai chào bác cũng chỉ gật đầu lấy lệ, Bác đang rất lo.Sáng nay con trai bác vừa rớt xuống ao, may mà thoát chết. Chỉ có điều đến giờ cu cậu vẫn còn chưa tỉnh lại. Bác vừa đi cắt thuốc về theo đơn của ông lang Hòe. Căn nhà của bác nằm ngay giữa làng, là do ông bố vợ để lại cho vợ chồng bác. Nhà khá rộng, lợp ngói khang trang. Phía sau nhà còn có một khoảnh vườn và một cái ao. Thằng con bác chả hiểu thế nào lại ngã ngay vào ao nhà. Nghe vợ kể, hai mẹ con đang nhổ cỏ, trồng rau trong vườn thì thằng con bác bất ngờ đứng lên khóc hu hu. Vợ bác đang sững sờ chưa kịp hiểu chuyện gì thì nó chạy thẳng ra ao. Lúc vợ bác chạy theo thì thằng con bác đã chìm nghỉm. Vợ bác vừa hô hào hàng xóm, vừa lội xuống vớt con lên. Ông lang Hòe đến, sơ cứu xong bảo thằng bé vẫn còn sống, nhưng cho đến lúc bác ở ngoài đồng về thì nó vẫn không tỉnh lại. Thế là bác phải chạy ù ra chợ, cắt một đơn thuốc. Vừa đi bác vừa thở dài, đúng là họa vô đơn chí. Số tiền thuốc đáng giá bằng tiền ăn của cả nhà trong một tháng. Đêm nay bác trông con thay cho vợ. Vợ bác cũng đã mệt rồi. Nghe tiếng con vẫn thở đều đều, bác Hà Phi yên tâm ra sân đi một vòng át. Bác cầm lấy ống điếu, châm một điếu thuốc lào rít khoan khoái. Hôm nay trăng cũng không sáng lắm, còn mấy ngày nữa mới đến rằm. Bác Hà Phi cất ống điếu định đi vào nhà thì thấy ngoài bờ rào thấp thoáng bóng ai đó. Bác hỏi to: “Ai đang ở ngoài kia đấy?” Người đó không đáp. Bác Hà Phi tưởng trộm, vớ ngay cái cuốc vẫn dựng bên hè đi ra. Bác hỏi to hơn: “Ai đang ở ngoài kia đấy?” Vẫn chẳng có tiếng trả lời. Lúc bác ra đến nơi thì mới thấy rõ. Người đó mặc một bộ đồ kiểu tướng quân thời xưa, khoác một chiếc áo choàng trắng, mái tóc dài phủ kín khuôn mặt .Bác Hà Phi sợ quá. Đây là lần đầu bác thấy một ‘con ma’. ‘Con ma’ nhìn bác, mắt nó xanh lét như mắt mèo, sáng quắc trong đêm tối. Đột nhiên nó khóc hu hu, rồi dọa bác: “Bọn mày không trả nhà cho tao thì tao giết bọn mày.” Thế rồi ‘con ma’ biến mất. Bác Hà Phi sợ quá , chạy vào nhà đóng kín cửa lại. Bác thắp cho ông bà tổ tiên nén hương, mong ông bà phù hộ. Đêm đó bác Hà Phi không ngủ được, thỉnh thoảng bác lại ra ngoài nhòm qua khe cửa xem ‘con ma’ có còn đấy nữa không. Ngày hôm sau bác Hà Phi luôn ở trong tình trạng căng thẳng, vợ hỏi gì bác cũng gắt. Bác đang nhớ tới lời ‘con ma’ đêm qua. Chỉ có điều nghĩ đi nghĩ lại, bác cũng chả biết mình phá nhà ‘con ma’ lúc nào. Cho đến chiều thì vợ chồng bác vẫn không việc gì. Thằng con thì đã cử động được ngón tay – ông lang Hòe sang xem bảo đấy là hiện tượng tốt. Bác Hà phi thở phào, có lẽ ông bà phù hộ, hoặc con ma không đủ thiêng, người nhà bác chả có ai gặp chuyện. Đột nhiên bác Hà Phi nghe thấy trong xóm có người kêu: “Ối giời ơi, ai cứu thằng cháu tôi với.” Bác nhận ra ngay giọng bà Pha hàng xóm. Bác vội vớ lấy cái cuốc chạy sang. Nhà bà Pha nhỏ và lụp sụp hơn nhà bác nhiều. Hàng rào cũng lưa thưa chứ không rậm như bên nhà bác. Lúc bác Hà Phi chạy vào thì bà Pha vẫn đang hí húi trong bếp. Đến cửa, bác thấy thằng cháu Quýnh cháu bà đang thò chân vào trong bếp.lửa. Nó khóc hu hu. Bà Pha đang cố kéo nó ra nhưng không thể kéo nổi thằng cháu đang tuổi bẻ gãy sừng trâu. Bác Hà Phi vội vã xông vào giúp bà Pha một tay. Ôi chao thằng cháu bà sao mà khỏe thế. Bác túm tay nó kéo mãi mà nó chả lay người lấy một chút. Bác bực mình ôm chân thằng Quýnh vật cho cu cậu ngã xuống. Sau đó bác mới xốc nách kéo nó ra khỏi căn bếp. Kỳ lạ thay sau khi rút chân ra khỏi lửa, thằng bé bỗng im bặt , không còn khóc nữa. Nó rên rỉ kêu đau rồi ngất đi. Lúc này hàng xóm cũng có người đến. Biết tình hình, họ vội đi mời ông lang Hòe. Ông lang đến khám xong, bảo chân thằng bé bị bỏng nặng, có thể phải đưa lên huyện để cưa. Bà Pha khóc sướt mướt. Bố mẹ thằng bé mất sớm, hai bà cháu sống dựa vào nhau. Thằng Quýnh là hi vọng của bà. Từ bé nó đang chăm ngoan, biết thương bà. Bà đang hi vọng năm sau kiếm được đám nào cho nó lấy vợ. Nó mà tàn tật thì ai còn thèm lấy nữa. Bác Hà Phi cũng mủi lòng. Thằng Quýnh hơn thằng con bác hai tuổi. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Giờ thì cả hai thằng đều sống dở, chết dở. Bác và mấy người nửa ở lại an ủi bà Pha đến suốt đêm, cơm cháo giúp bà. Khổ, nhà bà neo người quá. Đến tối mịt bà Pha đỡ hơn nhiều, bác và hàng xóm mới chào về. Đang ngáp ngắn ngáp dài thì bác nghe ông Viên ở đối diện với nhà bác kêu lên: “Ô hay gần nửa đêm rồi còn có ai đứng khóc ngoài kia?” Bác giật mình, đúng là có tiếng khóc thật. Lúc này tiếng khóc to và rõ hơn. Mấy người hàng xóm bèn đi ra chỗ có tiếng khóc. Dưới bóng trăng, bác nhìn thấy ‘con ma’ đêm qua đang đứng bên hàng rào nhà bà Pha. Hai mắt nó vẫn sáng và xanh lét như mắt mèo. Nó lại nói với mọi người nguyên xi câu hôm qua đã nói với bác: “Bọn mày không trả lại nhà cho tao thì tao giết hết bọn mày.” Bác sợ quá , hét lên: “Ma, ma” rồi vắt chân lên cổ mà chạy. Mấy người hàng xóm cũng chạy, ai nấy về nhà mình đóng cửa cài then, lên giường trùm chăn kín mít. Hôm sau, lúc bác Ba Phi ra khỏi nhà thì ai ai cũng biết chuyện “làng ta có ma”.Một đồn mười, mười đồn trăm, con ma trở nên khủng khiếp và đáng sợ. Các cụ già trong làng bàn cách làm lễ cúng sơn thần thổ địa, ông bà tổ tiên nhưng các cụ chưa kịp làm thì trưa hôm đó, con ma lại đến bắt người. Lần này đến lượt nhà bà Trình giàu có ở cuối làng. Thằng cháu, con của anh trai bà đi chăn trâu bị trâu húc thủng bụng. Lúc người trong làng đưa nó về nhà, ông lang Hòe đến thì chẳng cứu nổi nữa. Bác Hà Phi nghe nói trước khi chết, nó cũng khóc hu hu như thằng con bác. Tối hôm đó nhà bà Trình tổ chức đám ma to nhưng chả có mấy người dám đến. Bọn họ sợ bị ma ám. Chỉ có bác Hà Phi vẫn nhiệt tình giúp đỡ, bác tham gia dựng mái che, nấu chè xanh, dọn bàn ghế. Bà Trình cảm động lắm. Bà bảo lúc khó khăn hoạn nạn mới gặp chân tình. Bà cứ khen làm bác Hà Phi xấu hổ. Thực ra động cơ của bác không trong sáng đến thế. Giúp bà chỉ là việc phụ, việc chính của bác là xem nửa đêm con ma có đến hay không thôi. Đêm đã khuya lắm. Bà Trình và anh trai khuyên bác Hà Phi về nhà mà bác không chịu. Bọn họ đành lấy chè xanh cho bác ngồi nhâm nhi bên sân. Bác Hà Phi vẫn chăm chăm nhìn sang hàng rào nhà bà Trình, chờ con ma hiện lên. Quái lạ, thường thì giờ này nó đã đến rồi, sao hôm nay vẫn không thấy. Bác Hà Phi chợt nghe thấy tiếng vo ve bên tai. Bác vỗ tay đánh đốp một cái. “Chết mày” Một con muỗi to bụng đầy máu bẹp dí trong bàn tay bác. Rồi bác lại ngoảnh nhìn ra ngoài. Đêm nay trăng sáng lắm, cả sân vườn nhà bà Trình hầu như không có góc nào bác không nhìn thấy được. Rồi có tiếng chân người. Thì ra cháu gái bà Trình nấu bữa khuya ọi người, bưng cho bác một bát. Bác lởi xởi cảm ơn, khen con bé ngoan và thảo. Con bé ngượng ngịu cúi đầu. Bác giơ tay lên đỡ bát cháo thì “Choang” con bé thả bát cháo xuống sàn. Bác Hà Phi sửng sốt chưa hiểu chuyện gì thì thấy cháu gái bà Trình chỉ vào bác , miệng lắp bắp kêu : “Ma, có ma ” rồi chạy biến vào trong nhà. Bác Hà Phi sợ lắm. Bác nhìn lại mình, vẫn không thấy có gì kỳ lạ. Bác quay lại sau. Khuôn mặt trắng của con ma chỉ cách mặt bác khoảng hai gang. Nó đứng ngay sau bác từ bao giờ mà bác không biết. Đây là lần đầu tiên bác gần một con ma đến thế. Bác định chạy thì con ma khóc lên hu hu. Cái miệng của nó ngoác ra như cái bát tô làm bác sợ chết khiếp. Thế rồi nó vẫn nói câu cũ rồi biến mất bỏ lại bác Hà Phi đang run lẩy bẩy. Sáng hôm sau bác Hà Phi dậy sớm lắm. Bác đi tìm cụ Tốn. Cụ năm nay đã hơn tám mươi tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn lắm. Trước kia cụ làm nghề buôn bán, đi khắp các miền, biết nhiều chuyện lạ. Nhà cụ nằm đối lưng với nhà bác. Lúc bác đến thì cụ đang tỉa cây trong vườn. Thấy bác cụ cười : “Anh Phi đấy hử? Đi đâu mà sớm thế.“ Bác Hà Phi chắp tay: “Chào cụ ạ. Hôm nay con sang đây có việc hỏi cụ.” Cụ Tốn thong dong đi vào. Cụ nói với bác: “Anh vào nhà ngồi, tôi rửa tay cái đã.” Bác Hà Phi dạ một tiếng rồi đi vào. Nhà cụ Tốn to nhất làng. Trong nhà không phải nền đất như các nhà khác mà là nền gạch, trông rất sạch sẽ. Bác Hà Phi chưa ngồi thì thấy cụ đã đi vào. Cụ nói: “Ngồi đi, làm gì mà đứng mãi thế?” Bác Hà Phi ngồi vào ghế. Cụ rót nước cho bác uống. Trà nhà cụ thơm ơi là thơm. Uống hết chén trà, bác Hà Phi bắt đầu kể chuyện cho cụ nghe. Từ chuyện con bác, đến chuyện cháu bà Pha rồi đến cháu bà Trình. Cụ Tốn nghe xong cau mày không nói gì. Một lát sau cụ đứng lên, đi xuống nhà dưới gọi cháu: “Thằng Cu đâu, đến ông bảo.” Thằng bé nhà cụ mới tám tuổi, tóc còn cắt ba chỏm trái đào, lon ton chạy đến. Cụ dặn cháu: “Mày sang nhà cụ Vượng, cụ Khuê, cụ Tài mời các cụ ấy sang đây uống nước.” Thằng cháu nghe chưa hết đã vâng vâng dạ dạ rồi chạy đi. Cụ Tốn nói với theo: “Phải chào hỏi lễ phép đấy nghe chưa?” Rồi cụ lại lên tiếp chuyện bác Hà Phi. Một lát sau ba cụ già có vai vế nhất trong làng lần lượt tới đủ. Cụ Tốn bảo bác Hà Phi kể lại một lần ọi người nghe. Bác Hà Phi kể xong, cụ Tốn mới nói với ba cụ còn lại: “Các cụ ạ, trước tôi không biết chuyện, cho là cúng có thể giải được hạn. Sau nghe anh Phi nói mới biết, mình đã sai lầm lớn. Những thứ thế này chỉ có thể mời thầy đến trừ, chúng ta người trần mắt thịt, không thể giải quyết nổi đâu.” Ba cụ kia nghĩ một lúc rồi cũng đồng ý. Cụ Tốn lúc này mới nói : “Tôi nghe làng bên có ông thầy bói biết bắt ma trừ quỷ. Anh Phi chiụ khó sang đấy một chuyến. Tiền lễ, tiền công cho thầy làng ra. Anh có chịu không?” Bác Hà Phi nghe vậy mừng quá, gật đầu lia lịa. Nhà bác có người bị ma ám, bây giờ mời thầy về mà không tốn tiền, tại sao bác lại không chịu? Thế là cụ Tốn xuất tiền cho bác đi mua lễ. Bác Phi ra chợ mua cái đầu lợn, cau trầu, và một ít hoa quả rồi đi sang làng bên. Nhà ông thầy bói nằm sau mé đồi, gần một vùng cỏ tranh lớn. Lúc bác đến, ông thầy bói đang chổng mông trên giường vẽ bùa. Bùa của ông loằng ngoằng những thứ mà bác chẳng hiểu gì. Bác Hà Phi lễ phép chào ông, nói rõ ý đồ đến. Ông thầy khoanh chân nhận lễ vật, rồi hỏi bác trừ ma xong thì được bao nhiêu tiền? Bác Hà Phi nói xong việc xin hậu tạ thầy mười xâu tiền. Ông thầy lắc đầu , bảo phải hai mươi xâu ông mới chịu. Hai người cò kè mặc cả một lúc lâu mới đem giá định ở mười bốn xâu rưỡi. Ông thầy bói sai bác Hà Phi vào trong làng mua một con chó mực, gạo muối, tiền vàng, hương đèn. Sắm đủ lễ vật rồi bác Hà Phi gánh lễ đi trước, ông cắp giỏ đi sau, hai người trở về làng. Mới đên cổng làng, chưa kịp đặt gánh xuống nghỉ chân thì bác Hà Phi đã thấy con bé cháu bà Trình đi qua. Thấy bác, con bé liền mách con thầy lang Hòe lúc trưa đi bắt chim bị rơi từ trên cây xuống. Trong lúc mấy đứa khác khiêng nó về. thằng bé cứ khóc hu hu. Thầy lang Hòe thấy con khóc tưởng nó vẫn không làm sao, ai ngờ bắt mạch xong mới biết nó sắp chết. Thầy vội vàng dùng phương thuốc gia truyền cho nó uống. Đên giờ thằng bé nhà thầy lang vẫn không biết sống chết thế nào. Nghe thế ông thầy bói bảo bác Hà Phi gánh ngay lễ vật vào nhà thầy lang Hòe. Thầy lang Hòe lúc này đang lẩm bẩm cầu các cụ phù hộ cho con, thấy bác Hà Phi và thầy bói vào không biết làm sao. Nghe bác Hà Phi giải thích, thầy lang mới hỏi thầy bói có cần thêm gì nữa không? Ông thầy bói bảo chưa cần, rồi bắt đầu lập bàn thờ cúng giải hạn ngay trước cửa nhà. Ông cúng một mạch từ chiều đến tối mới nghỉ. Đến đêm ông sai bác Hà Phi làm thịt con chó mực, máu đựng vào trong cái bát tô to. Bác Hà Phi chưa từng giết chó bao giờ, may thay có ông lang Hòe biết việc. Ông cắt tiết rất nhanh. Bác Hà Phi chỉ phải làm mỗi việc đè con chó, sau đó bưng bát máu ra cho thầy lang. Bên ngoài trời vẫn tối om om. Tất cả mọi người đều tắt đèn hết, nhất là mấy nhà bên cạnh nhà thầy lang Hòe thì càng đóng kín cửa vì sợ ma đến tìm. Đêm vắng. Tiếng bụi tre xào xạc cũng khiến người ta liên tưởng đến mọi thứ. Bác Hà Phi mắc tiểu mà chẳng dám ra ngoài. Bác cứ đến bên cửa sổ nhìn ra. Chờ một lúc lâu, bác nghe thấy tiếng khóc. Tiếng khóc ban đầu chỉ rầm rĩ như tiếng dế kêu, rồi to dần. Tiếng khóc não nề làm những ai nghe được đều sởn cả tóc gáy. Bác Hà Phi ra sân. Bác muốn xem ông thầy bói bắt ma kiểu gì. Ông thầy bói lúc mới nghe tiếng khóc thì đã xăm xăm ra vườn. Nhìn thấy con ma, ông không sợ hãi gì mà đi vòng quanh nó, cắm bốn cái lá cờ giấy nho nhỏ. Sau đó ông bưng bát máu chó dội ngay vào chỗ nó đứng. Kỳ lạ thay ‘con ma’ sau khi nói câu quen thuộc không biến mất như mọi lần mà vẫn đứng lại. Ông thầy bói bắt đầu thắp hương, múa kiếm, bắt đầu lẩm bẩm đọc thần chú. Ông đọc rất nhanh làm bác Hà Phi chỉ nghe được đoạn cuối: “Âm binh âm tướng mau về nghe lệnh!” Thế rồi xung quanh ông thầy bói gió nổi lên vù vù làm bác Hà Phi há hốc miệng. Ông thầy bói lúc này quần áo tung bay, một tay bắt quyết, một tay vung kiếm chỉ vào con ma hô lên : “Diệt nó.” Một cơn gió lạnh thổi qua. Con ma liền biến mất. Bác Hà Phi thấy thần kỳ quá , cứ đứng sững sờ giữa sân, mãi đến lúc ông thầy bói gọi bác mới tỉnh ra, lẽo đẽo theo ông vào nhà. Thầy lang Hóe lúc này mới ló mặt ra hỏi ông thầy bói : “Tình hỉnh thế nào hả thầy?” Ông thầy bói đắc ý lắm, vuốt râu nói: “Mặc dù con ma này tu luyện đã lâu, pháp lực cao siêu nhưng rất không ma