cộng với hai chân phải đến mấy trăm mét ấy. Vương Uy nghe nói liền hiểu ngay, hoá ra là thế. Lúc từ trên dòng sông ngầm rơi xuống, chẳng phải Dương Hoài Ngọc nói rằng mình trông thấy một khuôn mặt Phật đó sao? Nói vậy thì thứ mà họ rọi đèn pin trông thấy rất có thể là pho tượng này. Chỉ khó hiểu là, Dương Hoài Ngọc trông thấy một gương mặt Phật, còn anh lại thấy một cái mỏ chim là sao? Ba người vừa leo vừa phân tích pho tượng, bỗng sau lưng Vương Uy nổi lên một trận gió độc, anh phản ứng rất nhanh, vội thết lên một tiếng: “Không xong!!”, nghoảnh lại đã thấy một bóng đen xô tới trước mặt. Bóng đen lao đến quá nhanh, anh vừa nhác thấy, chưa kịp nổ súng, nó đã vụt qua bên người rồi biến mất giữa biển sương mù bóng tối. Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc thay nhau nổ súng bắn theo nhưng đều hụt, hai người đưa mắt nhìn về phía Vương Uy, bất giác sững cả ra, chỉ thấy bóng đen kia vụt qua nhanh không thể tưởng tượng nổi, còn cuốn heo gió làm cho lá cây nghiêng ngả, xào xạc. Ba người sợ hết vía, vừa lóp ngóp leo lên vừa thầm nhủ bản thân phải cẩn thận hơn. Càng leo lên cao họ càng thêm kinh ngạc, để chế tác được một pho tượng đất ở sâu dưới lòng đất thế này, hẳn phải tốn rất nhiều nhân lực vật lực! Ngay pho Lạc Sơn Đại Phật ở Tứ Xuyên cao bảy mươi mốt mét cũng phải tốn một khối lượng lớn tài lực vật lực, cật lực chế tác suốt chín mươi năm mới hoàn thành. Pho tượng lớn nhường này, khoan tính đến tài lực, chỉ riêng việc xây đắp thôi, sợ rằng sức người không thể làm nổi. Không phải con người, vậy thứ gì đã tạo nên nó? Cả ba đều không thể trả lời được. Đương vừa leo nừa nghĩ ngợi, bỗng Dương Hoài Ngọc đâp đập vào người Vương Uy, Vương Uy quay lại nhìn, thấy cô chỉ vào giữa pho tượng, khẽ nói: -Anh nhìn kìa, trên kia hình như có ánh đèn. Dương Hoài Ngọc nói rất khẽ nhưng cả hai người kia đều nghe rõ, nhất loạt nghoảnh lại nhìn, quả nhiên thấy ánh đèn thấp thoáng sau màn sương mù. Chuyện này thật kỳ lạ, lẽ nào còn có người khác đang leo lên đây? Cả ba liền tắt đuốc, thận trọng leo lên, hướng về phía trung tâm pho tượng. Họ leo không chậm không nhanh, thứ nhất là sợ gây ra tiếng đánh động ánh đèn kia; thứ hai là trong lớp sương mù dày đặc thế này có thể trông thấy ánh đèn, chứng tỏ ngọn đèn kia cũng không xa họ lắm. Ba người từ từ giãn nhau ra, tạo thành thế bao vây. Không ngờ, khi họ leo đến giữa pho tượng thì phát hiện ánh dèn kia đã lặng lẽ biến mất, chỉ còn lại bóng tối im lìm, không một tiếng động. Ba người cách nhau một khoảng, lại không đốt đuốc, chỉ có thể mượn ngọn đèn kia để xác định phương hướng, ngọn đèn kia không còn, họ lập tức biến thành những con nhặng không đầu. Trong lúc nguy cấp này rất dễ rút dây động rừng, nếu đối phương là người mà họ lại đốt đuốc lên, chắc chắn sẽ có một loạt đạn xối xả bắn đến. Ba người lần mò leo lên trong bóng tối, hoàn toàn dựa vào cảm giác. Không có ánh sáng quả là bất lợi, may mà cái cây này có rất nhiều chạc cây, không dễ bị ngã, nhưng trong bóng tối, đó cũng là một nhược điểm, hễ động đậy, họ có thể bị cành cây đâm phải hoặc móc phải, huống hồ đây còn là cây đất, thân cành rất cứng. Cả ba bị cành cây đâm cho tơi tả, đành lần mò dò dẫm thật cẩn thận rồi tiếp tục leo lên. Vương Uy đang chật vật leo lên, chợt cảm thấy sau lưng có gió nổi lên, anh lập tức né đi rồi chuyển sang một chạc cây khác, lòng thầm kinh hãi: chẳng nhẽ thứ đó đang nấp trong bóng tối, âm thầm tập kích sao? Anh nắm chắc súng trong tay, không dám lơi lỏng một phút. Trận gió ào qua, xung quanh lại tĩnh lặng như tờ, Vương Uy còn đang thắc mắc thì nghe thấy phía trước có tiếng thở vọng tới. Tuy âm thanh rất khẽ, nhưng trong bóng tối yên tĩnh, lại trở nên rõ mồn một. Vương Uy cứng người lại, không dám nhúc nhích, nghe tiếng thở mà suy thì có lẽ đối phương là người. Nhưng nếu là người thì khi hắn lại gần anh, chắc chắn không thể im ắng như vậy được, nhất là giữa đám cành lá rậm rì thế này, rất dễ phát ra tiếng động. Vương Uy đứng bất động trên chạc cây, nghe tiếng thở kia mỗi lúc một gần hơn, hơi thở còn phả vào mặt anh. Không nén nổi, anh bèn đưa tay đẩy nó, nhưng lại đụng phải một khuôn mặt lạnh băng. Khuôn mặt này trơn bóng nhẵn nhụi, không thể là mặt dã thú, nhưng chắc chắn cũng không phải là người. Vương Uy vội đẩy khuôn mặt kia ra xa hơn một thước, cả người cứng lại. Hơi thở hắt ra từ mũi vật kia phả vào lòng bàn tay anh nhồn nhột, nhưng gương mặt ấy lại rất lạnh, vừa đụng vào đã buốt cả tay, vô cùng kỳ dị, khiến toàn thân anh nổi da gà. Anh rụt tay lại, thình lình vung báng súng quật thẳng vào gương mặt kia, nhưng chỉ quật vào khoảng không. Động tác rụt tay vung báng súng lên của anh chỉ trong nháy mắt, ấy vậy mà thứ đó đã lặng lẽ biến mất. Nhưng anh vẫn nghe được tiếng thở của nó gần quanh đó, chỉ là không thể xác định nổi vị trí của nó nữa. Vương Uy cố gắng trấn tĩnh, thầm nhủ: thứ đó lửng lơ bất định, ở đây lại không như trên mặt đất, hễ sơ sẩy là có thể rơi từ trên ấy trăm mét xuống, chết không kịp ngáp. Rõ ràng thứ đó đang dụ anh đuổi theo để anh rơi xuống mà chết. Nghĩ vậy, Vương Uy lại rủa thầm, không biết đó là giống gì mà lại giảo hoạt đến vậy. Vương Uy hiểu ra vấn đề, bèn mặc kệ thứ đó, tiếp tục thận trọng leo lên. Tiếng thở của thứ đó vẫn lẵng nhẵng bám theo anh, không gần không xa, hệt như u hồn, nhưng anh không làm sao xác định được vị trí cụ thể của nó. Vương Uy nơm nớp lo sợ, theo anh đoán, thứ đó đến tám phần là ma. Hàng trăm nghìn năm trước, khi kiến tạo nên pho tượng khổng lồ bằng đất này chắc chắn đã có không ít người phải chết, hẳn trên pho tượng này vẫn còn đầy những oan hồn lẩn khuất. Vương Uy đang leo chợt thấy trước mặt thấp thoáng một tia sáng, ánh sáng le lói giữa màn sương mù dày đặc, vô cùng hư ảo. Anh mừng rỡ cố leo lên thật nhanh về phía ánh sáng, thầm nhủ: trước hết phải hạ gục người cầm đèn. Nghĩ vậy, anh bèn thắp đuốc lên, bất chấp sự rình rập của gương mặt quái gở ẩn nấp trong bóng tối. Mải tập trung mọi chú ý vào tia sáng le lói sau màn sương mù dày đặc và bóng tối mịt mù, anh chẳng còn bụng dạ nào để ý đến tiếng thở vẫn bám theo mình như hình với bóng nữa. Leo được một quãng bỗng Vương Uy nghe thấy trên đầu vang lên tiếng thở, tiếng thở này rất nặng nề, khác hẳn với tiếng thở nhẹ sau lưng anh. Vương Uy bực bội, dần sinh ra sát ý, thầm nhủ nếu không giết bớt vài mống để uy hiếp đối thủ thì những thứ như hồn ma bóng quế kia cứ tụ lại mỗi lúc một nhiều, phiền toái không để đâu cho hết. Dù chúng đều là ma, nhưng mặt mũi lại rất sống động, phải cho chúng nát mặt ra rồi tính sau. Vương Uy đã quyết là làm, anh rón rén tiến tới, dồn sức mạnh lên đầu ngón tay, Đoạn Môn chỉ gia truyền của anh có thể bóp nát cả gạch đá, một ngón tay điểm ra, sắc bén không thua gì dao kiếm, chỉ cần điểm vào chỗ hiểm thì cầm chắc mười phần chết tám. Anh nhắm trúng vị trí của quái vật đang ở trên đầu, ngón tay điểm mạnh, nó vội né đi nhưng không kịp, khi ngón tay anh sắp điểm trúng hai mắt nó, nó bỗng la lên: -Thưa chỉ huy, là tôi… Vương Uy giật mình, vội thu lực lại đồng thời xoay người thật nhanh, ngón tay điểm trúng thân cây, lút vào gần một nửa. Thình lình phát hiện ra thứ đang thở hồng hộc trong bóng tối kia lại chính là Nhị Rỗ, anh bất giác cau mày mắng thầm: sao gã này thoắt cái đã leo cao thế, suýt thì lỡ tay giết nhầm rồi. Nhị Rỗ nói nhỏ: -Thưa chỉ huy, tôi vừa bò lên xem xét, ánh đèn trên kia rất có vấn đề. Vương Uy ngẩn ra hỏi: -Có chuyện gì? Nhị Rỗ căng thẳng đáp: -Tôi thấy cây đèn kia hình như không có ai cầm cả mà cứ treo lơ lửng trên không, cạnh đấy cũng không thấy người. Hơn nữa cây đèn này rất kỳ quái, thân đèn đầy những gỉ đồng, hình dạng như một bức tượng Phật, trên bụng khoét một cái lỗ, bên trong đặt bấc và dầu. Vương Uy nghe nói cũng cảm thấy lạ lùng, bèn hỏi: -Vậy là cái đèn đồng ấy bay lơ lửng trên không à? Nhị Rỗ hạ giọng: -Rất có thể nó bay lơ lửng trên không đấy, mẹ kiếp, nơi này đúng là quái gở. Hai người đang nghĩ ngợi, chợt từ phía trên thốc xuống một luồng gió độc, cả hai vội quay người né. Vương Uy không tránh kịp, thấy luồng gió độc xộc thẳng đến đỉnh đầu, liền hốt hoảng sử dụng Đoạn Môn chỉ, ngón tay chọc thẳng vào mặt vật kia. Nào ngờ Đoạn Môn chỉ có thể bóp nát cả gạch đá của anh điểm vào mặt mà thứ đó chẳng hề có phản ứng gì, như đụng vào thép cứng vậy. Ngay sau đó, chẳng để anh kịp thu tay lại, Vương Uy đột nhiên bị một đòn rất nặng vào lưng, cả người văng ra xa mấy mét, đập vào một cành cây, xương cốt toàn thân như vỡ vụn, đầu óc choáng váng. Người anh vừa bắn tung lên, ngọn gió độc kia lại ập tới. Vương Uy hoảng hồn, tự thấy mình không phải là đối thủ của nó, liền vội vàng ôm thân cây tụt xuống. Anh tụt xuống chừng mươi mét, ngọn gió độc kia mới tạm ngưng, thứ quái đản trong bóng tối ấy cũng biến đi đâu không biết. Nhị Rỗ cũng tụt xuống theo Vương Uy: -Chỉ huy không việc gì chứ? Vương Uy đáp không sao nhưng trong lòng lại ớn lạnh, thứ kia đến không tăm đi không tích, chẳng biết là thứ gì, bị nó theo dõi quả là phiền phức. Bây giờ đã khẳng định được ngọn đèn trên kia không phải là do người cầm, vậy thì không sợ bị đối phương bắn lén nữa, phải đốt đuốc lên trước rồi nói. Vương Uy rút ống mồi lửa ra châm đuốc ình và Nhị Rỗ, ánh đuốc vừa sáng lên, anh liền trông thấy trên một chạc cây gần đấy có một chiếc bóng lờ mờ ẩn nấp trong làn sương mù. Vương Uy nổi nóng liền rút súng ra bắn, thấy Vương Uy bắn, Nhị Rỗ cũng bắn quét một lượt. Chiếc bóng mờ kia chỉ nhoáng lên một cái rồi biến mất, đạn của hai người bắn cả vào khoảng không. Nhị Rỗ chửi thề: -Mẹ kiếp, rốt cuộc là thứ gì mà đến đạn cũng không sợ? Ông đây bắn súng không tồi, gần như vậy, ý nào lại bắn hụt? Vương Uy cũng lấy làm lạ, Đoạn Môn chỉ của anh điểm ra, chỉ cảm thấy mặt nó rất cứng, chạm vào lạnh buốt, thật kỳ dị! Dương Hoài Ngọc rớt lại sau cùng, thấy ánh đuốc của Vương Uy và Nhị Rỗ, bèn bò đến đó. Nghe hai người thuật lại những chuyện gặp phải, cô vô cùng kinh hãi. Thứ đó vẫn nấp sau màn sương mù lén lút theo dõi họ, lại có sức mạnh phi thường, không sợ dao súng, quả là một chuyện vô cùng phiền phức. Hiện giờ trong ba người, Vương Uy dựa vào cách hành xử quyết đoán và bình tĩnh đã tạo dựng được uy tín ình, Nhị Rỗ xưa nay vẫn nghe lời Vương Uy, chỉ đâu đánh đó còn Dương Hoài Ngọc từ lúc gặp nạn trên chiến thuyền cổ cũng bớt dần địch ý với anh. Anh trầm ngâm giây lát rồi nói với hai người: -Quá vật trong bóng tối tuy rất đáng sợ, nhưng hiện giờ chúng ta chưa có cách nào trị được nó, huống hồ phía trên cây này lại có một ngọn đèn kỳ quái, nghe nói hình dạng nó giống như tượng Phật, xung quanh đầy gỉ đồng, hơn nữa còn không có người cầm, cứ tự động di chuyển phía trên bức tượng, thật lạ lùng hết sức. Dương Hoài Ngọc nghe kể vô cùng kinh ngạc,vội hỏi phải làm thế nào. Vương Uy nói: -Cứ lên xem sao. Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều không có ý kiến gì, ba người cầm đuốc tiếp tục leo lên. Vương Uy dẫn đầu, leo lên thêm mấy chục mét nữa mà chẳng thấy chiếc đèn đồng Nhị Rỗ nói đâu cả. Nhị Rỗ lại soi đuốc tìm trong phạm vi mấy chục mét quanh đấy nhưng vẫn không tìm thấy tăm hơi cái đèn đâu hết. Dương Hoài Ngọc ngờ vực hỏi: -Anh thấy ngọn đèn đó thật đấy chứ? Nhị Rỗ đang sốt ruột, nghe Dương Hoài Ngọc hỏi, liền cáu nhặng lên: -Ông đây không mù, cái đèn to như vậy mà không thấy à? Mẹ kiếp, đồ tây rởm óc bã đậu, có vậy mà cũng nghi ngờ! Dương Hoài Ngọc nghe nói liền nổi khùng, lập tức chĩa súng bắn Nhị Rỗ. Nhị Rỗ lăn lộn chiến trường mười mấy năm nay, giết không biết bao nhiêu người, bản lĩnh ứng phó với nguy hiểm cũng chẳng phải vừa, liền khom lưng một cái, từ trên cành đu xuống, lẩn vào đám lá nhưng Dương Hoài Ngọc vẫn đuổi riết không tha. Vương Uy để mặc hai người, tiếp tục leo lên thêm mười mấy mét nữa, tiếc rằng ánh sáng có thể xua tan bóng tối nhưng không xua được sương mù, tầm nhìn trong sương mù rất hạn chế, nhất định ánh sáng của cây đèn kia yếu hơn ánh đuốc, phạm vi chiếu sáng hẹp, hơn nữa còn di động trong đám lá nên khó mà thấy được. Vừa rồi trong lúc họ đụng độ với thứ ẩn náu trong sương mù kia, rất có thể ngọn đèn đã di chuyển đến một chỗ khác. Vương Uy đang quan sát tình hình xung quanh, bỗng nghe thấy tiếng hét thất thanh trong đám lá, tiếng thét thê thảm vô cùng, chính là giọng Nhị Rỗ. Anh hoảng hốt tụt xuống, tay xách súng, thò đầu vào đám lá nơi Nhị Rỗ đang ẩn náu. Vương Uy chui vào, vừa ngẩng lên liền trông thấy một bóng đen khổng lồ xẹt qua, Dương Hoài Ngọc bị treo lủng lẳng trên chạc cây, hai tay đầy máu, còn Nhị Rỗ thì không biết biến đâu mất. Vương Uy kinh hãi, vội ngoái đầu nhìn quanh, chợt cảm thấy một cơn gió mạnh thốc đến từ phía sau, quay lại thì đã muộn. Anh vội co người, lật tay sử ra Đoạn Môn chỉ, liền quét phải một vật gì đó. Ngay sau đó bên tai anh chợt vang lên tiếng gầm như sấm động, tưởng chừng xé tan màng nhĩ, khiến anh ngã lộn nhào, đột nhiên, thắt lưng anh bị tóm lấy, anh vội nương theo thế ngã mà vùng ra. Vương Uy lăn vào đám lá, lập tức đưa tay sờ hông, thấy tay đầy máu, con quái vật kia thật dễ sợ, vừa đụng vào là móc ngay được một mảng thịt. Vương Uy rất lo cho sự an toàn của Nhị Rỗ, bèn bất chấp tất cả, vạch lá nhìn vào, liền thấy ngay một khuôn mặt áp tới, cách mặt anh chưa đến một thước. Toàn thân anh cứng đơ, mồ hôi lạnh toát đầm đìa, chỉ thấy bộ mặt kia đầy sẹo lồi, thoạt nhìn giống hệt tượng Di Lặc trong các đền chùa. Đôi mắt nó to cồ cộ như hai quả chuông đồng, con người và hàng mi đều đỏ độc một màu máu, như thế có một ngọn lửa đang phừng phừng cháy trong đó. Vương Uy chưa bao giờ thấy một bộ mặt đáng sợ đến thế, nỗi kinh hoàng tận đáy lòng ào ạt tràn ra khắp người. Trong tay anh có súng, nhưng bị gương mặt kia áp sát, anh đã mất hết dũng khí giương súng lên. Vương Uy và gương mặt đó trừng mắt nhìn nhau hồi lâu, đột nhiên nó chớp mắt, rống lên, Vương Uy đang đứng sát ngay gần nó, tiếng rống này chẳng khác nào tiếng sấm giữa trời quang, khiến anh sợ đến nỗi tuột tay đánh rơi cả đuốc, phải giơ hai tay bịt chặt lấy tai. Không còn đuốc, trước mắt Vương Uy lại tối sầm. Trong bóng tối, cành lá không ngừng xào xạc, Vương Uy bịt tai, ngồi xổm trên chạc cây, không thể nào đứng lên nổi. Một lúc lâu sau, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc thắp đuốc đi tới, anh mới dần dần trấn tĩnh, còn thứ ma quái kia chẳng biết đã biến mất từ bao giờ. Lưng Nhị Rỗ bị xé toạc một mảng, vết thương không sâu lắm, vừa rồi gã kêu thảm thiết là vì bị thứ ma quái kia tóm vào lưng, cứ ngỡ rằng nó sắp ăn thịt mình tớ nơi nên mới thét lên như thế. Hai tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, một tay mất hẳn một miếng thịt, máu vẫn chưa cầm, ống tay áo còn nhỏ máu tong tỏng. Giọng run run, Nhị Rỗ hỏi Vương Uy: -Chỉ huy có thấy thứ ma quái ấy không? Vương Uy cố trấn tĩnh, chậm rãi đáp: -Tôi thấy, tôi thấy một bộ mặt Phật… Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều kinh ngạc, té ra nó đúng là thứ ở trên bức tường thật, bức tượng này cao đến mấy trăm mét, vậy mà nó vẫn bám theo, thật sự không đơn giản. Vương Uy nói: – Hai người còn thấy gì nữa không? Từ đầu đến giờ tôi chỉ thấy mỗi cái mặt của nó thôi, thật kỳ dị. Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cùng lắc đầu, con quái vật kia đến nhanh như gió đi nhanh như điện, họ chỉ nhác thấy một bóng đen xông tới, còn chưa kịp nổ súng, đã bị xô ngã. Vương Uy nói: -Từ nhỏ tôi đã học tập kiến thức lăn lội giang hồ, lớn lên đi học trường Tây, mẹ kiếp không thể nói là thông kim bác cổ, nhưng xấu tốt gì cũng có chút kiến thức, vậy mà nghĩ mãi không ra con mặt có bộ mặt Phật này là thứ gì? Nhị Rỗ nói: -Đừng nói có nghĩ ra hay không, chỉ huy xem, thứ đó cứ bám theo sau chúng ta nhưng chỉ làm bị thương mà không giết chúng ta, không kỳ lạ hay sao? Vương Uy gật đầu. Thứ mai quái kia mỗi lần xuất hiện thể nào cũng làm bị thương bọn họ, như thể đùa dai vậy, nhưng lại không làm chết người, thật khiến người ta không sao hiểu nổi, ngồi nghỉ một lúc trên chạy cây rồi tiếp tục leo lên. Có được bài học vừa rồi, học không dám phân tán ra nữa, vừa leo vừa quan sát động tĩnh, chỉ cần phát hiện có gì khác lạ là lập tức nổ súng. Tuy đạn không thể làm bị thương thứ đó nhưng vẫn có thể xua đuổi nó. Lại leo thêm đến độ ấy trăm mét, cành lá trên bức tượng bắt đầu thưa dần, rồi trụi hẳn, căn cứ vào hoa văn trên thân tượng, họ phán đoán rằng đã leo đến phần ngực của bức tượng. Dọc đường leo lên, ba người luôn hết sức thận trọng, chỉ sợ gương mặt Phật trong sương mù kia lại xông ra. Quái vật ấy thật là khủng khiếp, chẳng thể làm gì được nó. Có điều lần này họ leo suốt mấy trăm mét, không thấy con quái vật kia đâu cả, như thể nó đã biến mất vậy. Từ ngực bức tượng đất trở lên chỉ có mấu để bám chân vào, không còn cành chân chạc cây nữa nên rất khó leo, hễ không cẩn thận, rất dễ bị rơi xuống. Từ trên độ cao này rơi xuống chắc chắn sẽ thịt nát sương tan nên họ phải hết sức cẩn thận. Vương Uy bị thương tương đối nặng, dần dần anh bị tụt lại phía sau Dương Hoài Ngọc. Lần này, suốt dọc đường không thấy thứ ẩn nấp trong sương mù kia nữa nên Dương Hoài Ngọc dần dà leo nhanh hơn, bỏ Vương Uy và Nhị Rỗ lại phía sau cả chục mét. Vương Uy và Nhị Rỗ leo rất vất vả, bỗng nghe thấy Dương Hoài Ngọc ở phía trên gọi to: -Hai anh lên đây nhanh lên nào, hình như tôi phát hiện thấy thứ này kỳ lạ lắm. Hai người leo lên đến nơi, thấy Dương Hoài Ngọc đang bám vào ngực pho tượng, ngẩn người ra. Cả hai vội đến gần xem xét, thì ra Dương Hoài Ngọc đang quan sát những nét vạch dài hai bên ngực tượng, thấy Vương Uy và Nhị Rỗ leo lên, cô bèn chỉ cho họ xem: -Những nét vạch này hình như là chữ viết, các anh có nhận ra không? Vương Uy nhìn đến hoa cả mắt, những vạch dài kia ngoằng ngoèo nghiêng ngả, nào có giống chữ viết giống một bức bích hoạ được phóng to thì đúng hơn, nhưng bức hoạ lớn như vậy, bọn họ không sao thấy được toàn cảnh nên chẳng thể hiểu rõ nổi. Nhị Rỗ rất hứng thú với những nét vạch ấy, gã leo lên leo xuống xem xét hồi lầu rồi khẳng định với Vương Uy và Dương Hoài Ngọc. -Đúng là chữ, hơn nữa còn là chữ Tạng. Vương Uy trợn mắt nhìn Nhị Rỗ, nói: -Anh định lừa ai đấy? Chúng ta đánh nhau mười mấy năm ở vùng Xuyên Trung, chẳng nhẽ chưa thấy chữ Tạng? Nhị Rỗ vội xua tay: -Đây có lẽ là loại chữ Tạng cổ xưa nhất. Nói chung chữ Tạng có thể chia làm ba loại, là Tạng, Khang và An Đa, tuỳ theo từng địa phương. Vùng Tạng Xuyên Trung thuộc khu vực sử dụng loại chữ Khang, khác xa chữ Tạng ở các địa phương khác. Không những vây, chữ Tạng từ thời cổ đại đến nay đã trải qua ba lần quy chuẩn và cải cách, gọi là ba đợt chỉnh lý toàn diện… Đợt thứ nhất là vào khoảng giữa thời kỳ Trì Tùng Đức Tán, thời đó còn biên soạn ra một quyển từ điển, gọi là Phạm Tạng từ điển, chữ Tạng mô phạm trong quyển từ điển này khác hẳn chữ Tạng thời kỳ đầu do Thôn Mẽ Tang Bố Trát, người xếp thứ tư trong số bảy đại hiền giả đặt ra; sau đó Thổ Phồn Tán Phổ Trì Tổ Đức Tán nghiên cứu Tạng văn, lệnh cho các dịch sư tăng nhân nổi tiếng của hai nước tiến hành chỉnh lý lần thứ hai; lần cuối cùng là cách đây hơn một ngàn năm, đại dịch sư Nhân Thanh Tang Bố của Thổ Phồn, con trai A Lý Cổ Cách vương Ý Hy Ốc, cháu năm đời của Đạt Ma cuối thời Tán Phổ cầm đầu những dịch sử nổi tiếng Thiên Trúc, mất đến chín mươi hai năm mưới chỉnh lý xong. Qua ba lần chỉnh lý này, chữ Tạng đã có nhiều thay đổi lớn, dù là phát âm hay chữ viết đều khác xưa rất nhiều. Chữ Tạng trên tượng đất này xem ra giống với chữ Tạng thời kỳ đầu do đại sư Thôn Mẽ Tang Bố Trát đặt ra. Vương Uy nuốt nước bọt, nói: -Chữ Tạng thời kỳ đầu? Không thần bí đến thế chứ? Nhị Rỗ vê vê bộ râu dê, nói: -Hiện giờ tôi mới chỉ là phán đoán thôi, hai người chờ tôi ở đây, để tôi xem hết những dòng chữ này rồi nói. Chữ Tạng đọc từ phải sang trái, Nhị Rỗ buộc bó đuốc vào cánh tay, bảo Vương Uy đưa cho gã cây bút chì và vài trang giấy, rồi leo từ bên phải sang. Đoạn văn tự này phân thành mấy hàng, chạy dài suốt mấy chục mét ở hai bên ngực pho tượng. Nhị Rỗ leo đi leo lại mấy lần, nhất nhất chép lại những dòng chữ kia vào giấy, vất vả hồi lâu mới chép xong Ba người tìm thấy một tảng đá lớn nhô ra gần ngực bức tượng, thừa sức để cả ba ngồi. Nhị Rỗ đọc lại những trang giấy ghi đầy chữ, vê rụng mấy sợi râu dê rồi mới nói: -Những dòng chữ Tạng này cho biết, bức tượng này không phải là tượng Phật mà chỉ là tượng một người được tất cả dân Tạng triều bái và cung phụng. Vương Uy hỏi: -Nhiều chữ vậy mà chỉ một câu ấy thôi à? Nhị Rỗ gật đầu, nói: -Chỉ huy không tin ai thì được, nhưng đối