ăn phòng tầng hầm đó là chỉ dành cho một ai đó xác định thôi, – Justus nói cho hết câu. Thế rồi cậu xoay nắm đấm và cánh cửa mở ra. Bộ ba thám tử hầu như không thể tin được váo mắt mình. Câm nín vì kinh hãi, họ đứng trong căn phòng tầng hầm nhỏ bé và đưa mắt nhìn qua các mảng tường cũng như một chiếc bàn được sắp xếp rất giống bàn thờ. Dora Mastratonio, góc nào cũng là ảnh ngôi sao Ô-pê-ra quá cố. Cả bốn bức tường hầu như được phủ kín bằng vô vàn những chiếc ảnh và những bài báo về nữ ca sĩ Ô-pê-ra trong mọi kích cỡ. Trong một phòng có một kễ gỗ nho nhỏ, trong đó để khoảng chứng một tá đĩa CD của cô Mastratonio và một chiếc CDPlayer xách tay. Trên mặt bàn là một số ảnh khác có lồng khung, đa phần là những bức ảnh tự chụp, chỉ ra hình Dora Mastratonio trong khoảng vưởn hoa hồng hay trong toà biệt thự của cô. Trên một số ảnh có cả hình bà Elouise Adams, trong một số nữa có cả bà O Donnell và tiền sĩ Jones, thậm chí có những ảnh có hình những người mà bộ ba không biết. Trong góc dưới bên phải của những tấm ảnh đều có in rõ ngày tháng và chính xác thời điểm chụp ảnh, theo như cách người ta thường chụp ảnh bằng máy tự động. Cứ theo những con số đó thì những bức ảnh ở đây đã được chụp trong nhiều năm khác nhau. – Trời đất ơi! – cuối cùng Peter cất nổi thành lời. – Các cậu nhìn đi! – Có vẻ như ông Willow là một người hâm mộ cô Mastratonio hết mực, – Justus tỉnh táo nhận xét. – Nhưng mình đoán khá chắc rằng đây là căn phòng tầng hầm của ông ấy. Chắc là bà ta hoàn toàn không biết có những thứ gì được cất giấu đằng sau cánh cửa nầy. – Một người hâm mộ thôi sao? – Peter cay đắng cười khẽ. – Sao lại nói bớt đi trắng trợn như thế, Justus. Thử nhìn quanh mà xem! Ông ấy bị cô ấy ám ảnh thì đúng hơn! Tất cả những tấm nầy là tự tay ông ấy chụp! Ông đã chụp nhiều cảnh trong nhà qua những khuôn cửa sổ khác nhau. Các cậu nghĩ… các cậu có nghĩ là ông ấy cũng chụp ảnh cả bọn mình không? Lúc ban nãy trong phòng làm việc ấy, khi đột ngột có tia chớp lóe lên. – Chắc là đúng thế đấy, – Justus nói. – Mình không nhìn thấy ai đứng ngoài. Các cậu đã nhận thấy rằng, từ khuôn cửa sổ phòng ngủ của vợ chồng ông Willow người ta có thể nhìn vào phía trong toà biệt thự của cô Mastratonio? Chắc là ông ta đã chụp ảnh từ đó, giống như rất nhiều ảnh khác ở đây. Thử nhìn mà xem, cô Dora đang mặc áo choàng tắm. – Còn đây là ảnh của cô ấy đang hôn một người đàn ông khác, – Bob nói và gõ khẽ ngón tay vào một tấm ảnh khác được lồng khung. – Nầy, khoan đã, người nầy mình nhìn thấy ở đâu rồi! – Cậu nói cái gì thế hả? – Đúng thế, mình đã nhìn thấy ông ấy một lần rồi. Cách đây chưa đầy một tiếng đồng hồ, trong một tấm ảnh khác, trong phòng ngủ của tiến sĩ Jones. Đây là ông chồng của Cecilia Jones, Ông Gilbert! – Cậu không đùa đấy chứ! – Justus kêu lên. – Không đùa chút nào! Cái mặt nầy đã không lẫn vào đâu được. Và đó là tấm ảnh đám cưới, vậy thì chắc chắn là ông chồng của Cecilia Jones . ông ấy mới chết gần đây thôi, đúng không nào? – Cách đây bốn tháng, – Justus nói. – chỉ một tuần trước cái chết của cô Dora. Thế đấy, ra là hai người ngoại tình với nhau. Dora thật sự đã thò tay vào đống lửa nầy. Đầu tiên cô ấy bám vào ông chồng của bà Elouise, rồi sau đó đến lượt chồng Cecilia. Nếu mà bà Bernadette có chồng, chắc là cô Dora cũng chả chịu tha cho chồng bà ấy. Liệu đây có phải là chuyện tình cờ không, khi mà cái chết của Gilbert và Dora nằm gần nhau tới thế? – Không, – Peter bắt chước cái giọng rùng rợn vang lên từ dưới mộ, thế rồi đột ngột cậu chàng tự thấy toàn thân mình rởn lên. – Các cậu không thấy cái nầy là cái gì đây sao? Nó có nghĩa là gì? – Ý cậu muốn nói sao? – Ông Willow chẳng phải chỉ là một người hâm mộ cô Mastratonio. Ông ta mê cô ấy đến phát điên! Cho nên đã ngấm ngầm chụp không biết bao nhiêu là ảnh của cô ấy! Và chẳng phải chỉ chụp ảnh, ông ấy ngoài ra còn bị ám ảnh ngay cả khi cô ấy đã chết, và nhiều tháng trời sau đó vẫn chụp ảnh tất cả những gì xảy ra trong biệt thự của cô ca sĩ đó. Đây không phải chuyện bình thường! Vợ ông ta chắc chắn không hề biết một xíu nào về việc nầy, nếu không thì chìa khoá căn phòng nầy đã không được giấu kín đến thế. – Cậu muốn nhắm tới mục đích nào, Thám tử phó. – Rất logic ma. Chắc chắn là ông John Willow đã ngấm ngầm đam mê cô Dora và tôn thờ cô ca sĩ từ lâu lắm rồi, và dĩ nhiên là ông ta hoàn toàn không có cơ hội tán tỉnh… Rồi một ngày nọ, ông ta phát hiện thấy cô Dora có quan hệ với chồng của Cecilia. Ông Willow đã nổi điên hoàn toàn vì ghen tuông, và đầu tiên giết chết Gilbert John, để rồi chỉ một tuần sau giết chết cô Dora Mastratonio. Các cậu còn nhớ giọng Phantom của cô Dora nói gì không? Thủ phạm ở rất gần! Và chỉ một giây sau, mình đã nhìn thấy gã Willow đứng bên cửa sổ. Tấ cả các sự kiện đều hợp với nhau! – Mặt Peter nhợt nhạt. Đột ngột, cậu thấy toàn thân lạnh như băng. – bọn mình phải biến ngay lập tức thôi, Justus, mình không muốn ở lại đây thêm một chút nào nữa! Bọn mình gọi cảnh sát! – Cứ bình tĩnh, đừng hốt hoảng! Thám tử phó! – Bình tỉnh đừng hột hoảng hả? – Giọng Peter tắc nghẽn. – Chính cậu đã nói, giết người là một vụ án quá lớn đối với bọn mình. Giờ cậu có thể nhân đôi mọi việc lên, vì đây là một vụ giết hai người! Và bọn mình đang đứng trong tầng hầm của tay sát nhân! Justus đảo mắt lên trời. – Trời đất ạ, Peter bình tĩnh đã! Mặc dù đó là một lý thuyết hập dẫn, nhưng chúng ta chưa có lấy một bằng chứng nhỏ nhất. Mà ngoài ra, cậu còn quên một vài dữ liệu: Giọng Phantom đó không phải là giọng thật, giờ thì chúng ta đã biết chắc như vậy. – Ôi dao, chuyện dớ dẩn! Chỉ bởi vì anh Darren Higman nói đó không phải là giọng cô Mastratonio ư? Dĩ nhiên đó không phải là giọng của cô Mastratonio, mà là giọng của hồn ma cô ấy! Rõ ràng là giọng nói của người ta thay đổi, một khi đã bước sang bên kia thế giới! – Thế còn chuyện thay đổi di chúc thì sao? – Mình làm sao biết được chuyện đó có ý nghĩa gì! Tình cờ thôi! Mình chẳng thèm quan tâm! Bây giờ mình muốn biến khỏi nơi nầy càng nhanh càng tốt! – Justus, mình cũng đồng ý là chúng ta đi thôi, – Bob lên tiếng. – Chúng ta không biết bao giờ thì ông Willow quay trở lại. Và đằng nào thì cũng có thể có khả năng là Peter có lý. Nếu Willow mà tóm được bọn mình ở đây thì… – Được rồi , được rồi , ta biến, – Justus nhượng bộ. – Dẫu sao thì bọn mình cũng đã nhìn đủ rồi. Ho xoay người định bước đi, rồi đột ngột Bob ngung lại. Ánh mắt của cậu nhìn trân trân vào một chiếc ảnh nhỏ được treo trên khoảng tường cạnh cửa ra vào. Ở phía trước hiện rõ hình Elouise Adams. – Các cậu nhìn xem! Nhìn cái ảnh nầy! Nó được chụp từ phòng ngủ của vợ chồng ông Willow: Cô Adams đứng trong phòng làm việc. Trông cô ấy rất có vẻ giận dữ, và la thét qua khuôn cửa để mở về phía cô Mastratonio, cô nầy bây giờ đang đứng trong hành lang. Peter ném một cái nhìn xuống tấm ảnh. – Thì đã sao? Kể cả những cặp bạn gái thân nhất cũng có lúc cãi nhau. – Mính không nói tới ý đó, Peter. Mà là… – Là ngày tháng! – Justus cắt ngang lời bạn và giật tấm anh ra khỏi tường, để nhìn kỹ hơn con số ngày tháng được in trên đó. – Không thể có chuyện nầy được! – Cái gì vậy, Justus? Lần nầy thì người trả lời là Bob: – Elouise Adams đã có một chứng cớ vắng mặt cho cái chết của cô Dora. Bà ấy khẳng định rằng, vào lúc cô Dora chết thì bà ấy thậm chí không có mặt trong vùng Malibu Beach, nhưng cái ảnh nầy lại được chụp đúng vào ngày hôm đó. Mà là chính xác vào lúc 3 giờ 48 phút. Mười hai phút trước khi bà giúp việc tới và phát hiện ra xác của cô Dora. Mưa gõ to đến phát sợ xuống mái của Bộ tham mưu . Trong một góc mái đã chớm xuất hiện vệt ẩm. Thế rồi từ đó nước chầm chậm đọng lại thành từng hạt, rồi nhỏ xuống, nhỏ xuống, chậm chạp nhưng đều đặn, nhỏ xuống cái nồi hứng bên dưới. Peter dùng khăn chùi mạnh cho khô tóc, trong khi Bob và Justus loay hoay treo đồ ướt của họ lên dây phơi quần áo được căng chéo qua Bộ tham mưu. Trên đường từ Malibu về Rocky Beach , cả ba đều ướt như chuột lột. Bob đã đặt nước đun trà, mong chống chọi với cái lạnh đã thấm váo đến tận xương tuỷ họ. – Thật không biết mình cần phải nghĩ gì nữa, – Peter nói và ló đầu ra từ chiếc khăn bông. – Đầu tiên trông như thể bà Adams chính là thủ phạm, bởi vì bà ấy là người duy nhất có động cơ. Thế rồi sau đó lại lộ ra rằng ông Willow là một người đam mê cô Mastratonio đến mức độ điên khùng, rất đáng bị nghi là một dạng sát nhân tâm thần. Thế rồi sau đó lại xuất hiện một lần nữa bà Adams, bởi bà ấy đã có mặt trong ngôi nhà vào thời điểm xảy ra án mạng, mặc dù bà ấy khẳng định điều ngược lại. Thêm vào đó, bà ấy còn cãi cọ với cô Dora vài phút trước khi cô nầy chết. Thế nhưng nếu bà ấy nhắm tới việc được thừa kế tài sản, thì tại sao bây giờ bà ấy lại không chịu vào ở trong cái căn nhà đó? – Đó mới là câu hỏi lớn, – Justus thú nhận. – Ít nhất thì ta cũng có thêm thông tin để làm nặng mối nghi ngờ rằng bà Elouise Adams đã nói dối, và vì thế mà tạm thời chúng ta hãy coi bà ấy là đối tượng bị tình nghi chính. – Mình muốn nói rằng, nó không phải chỉ là một sự nghi ngờ, mà nó là bằng chứng, – Bob cãi lại. – Trong tấm ảnh nầy, hình bà ấy hiện rõ – chắc chắn bà ấy nói dối. – Nhưng cậu quên rằng, rất có thể ngày tháng trên tấm ảnh là ngày tháng giả, vì người ta có thế thiết lập cho máy chụp ảnh khác với ngày giờ ngoài đời. mình cũng nghĩ là khả năng nầy khó xảy ra, nhưng chúng ta không được phép bỏ qua bất kỳ một khả năng nào. – Thế bây giờ chúng ta làm gì? – Peter hỏi. – Chúng ta có nên nói cho chú thanh tra Cotta biết không? Suy cho cùng thì những thông tin đã làm nặng thêm mối nghi ngờ rằng đây thật sự là một vụ giết người, đúng không nào? – Không có bằng chứng, ta sẽ không nói với ai bất cứ một lời nào, – Justus dõng dạc tuyên bố. – Mà đáng tiếc là chúng ta vẫn còn thiếu rất nhiều thông tin. Nhưng có thể tới tối nay thôi là tình thế sẽ thay đổi. – Tại sao? – Bob hỏi. – Hôm qua mình đã gọi điện cho chú Cotta. Phải thuyết phục chú ấy rất nhiều thì cuối cùng chú ấy mới hứa là sẽ chọn ra tập hồ sơ trong vụ án Mastratonio của cảnh sát và gửi cho bọn mình qua đường Fax. Chỉ một chút nữa là nó sẽ tới đây thôi. Cho tới thời điểm đó, ta hãy tìm cách tạo dựng lên một lý thuyết thích hợp với những dữ liệu tìm được. Trà đã pha xong, Bob rót ra tách. Cả ba thám tử ấp tay bằng những cốc trà nóng, rồi chậm rãi uống từng ngụm thứ nước bỏng rẫy. – Ta hãy bắt đầu bằng việc sửa đổi di chúc, – Justus đề nghị. – Bob, cho bọn mình xem lai đống giấy tờ đó Thám tử Thứ Ba rút ra tập giấy tờ từ túi ba lô ra, rất may mà chiếc ba lô không bị thấm nước mưa, cậu đưa tập giấy sang cho Justus. – Vậy là cô Dora Mastratonio đã định để lại toà biệt thự cho bà Bernadette, chứ không phải cho Elouise như ý định từ trước. Cậu hỏi quyết định là: Elouise có biết chuyện nay không? Nếu biết thì bà ấy quả là có động cơ để giết chết cô Dora, trước khi người nầy kịp đưa bản sửa chửa di chúc đến chỗ công chứng viên, nhưng nếu như thế mà suy luận logic thì chẳng lẽ bà Elouise không muốn huỷ bỏ bản thảo sửa chửa di chúc nay hay sao? – Có thể bà ấy không biết rằng có một bản thảo như thế, – Bob đề nghị. – Có thể cô Dora đã nói với bà ấy rằng bà ấy không được quyền thừa kế nữa. Vì vậy mà Elouise giết chết Dora, mặc dù không hề biết ý định thay đổi di chúc đã được soạn thành bản thảo bằng giấy trắng mực đen. – Dó là một khả năng, – Justus đồng ý. Mặc dù vậy, mình vẫn tin rằng ít nhất thì bà ấy cũng phải linh cảm thấy và phải đi tìm nó mới được. Mà chuyện tìm tòi nầy đâu có gì khó khăn. Tờ giấy nằm trong một tập giấy, trong một ngăn kéo bàn viết được khoá kín. – Justus lật lại xem những tờ giấy còn lại. – Đây là địa điểm đầu tiên mà nếu mình là bà ấy thì mình sẽ đi tìm. Mà việc mở cái khoá đơn giản nầy thì kể cả đối với… – Thám tử trưởng đột ngột ngưng bặt. Cậu nhìn xuống tập giấy trong tay mình. – Chúng ta đã ở trong phòng làm việc của cô Dora, đúng không? – Đúng. – Thế thì tại sao lại có giấy tờ của bà Bernadette trong bàn làm việc của cô ấy? – Sao kia? – Bob nói và đưa mắt nhìn thoáng tập giấy tờ. Giấy tờ của cô Bernadette? – Đúng thế. Giấy thông báo về chuyển dịch của tài khoản, các hợp đồng bảo hiểm, thư từ của công sở – toàn bộ tập nầy là của bà Bernadette, chứ không phải của cô Dora! – Như thế có nghĩa là sao, Justus? – Điều đó có nghĩa là giấy tờ của cô Dora chắc chắn đã bị đút vào một nơi nào đó từ lâu rồi , suy cho cùng thì cô ấy qua đời đã ba tháng nay. Bà O Donnell đã chuyển đến chiếm căn phòng làm việc nầy và đã đưa giấy tờ của bà ấy vào trong ngăn kéo bàn làm việc. Trong số giấy tờ đó, có bản thảo sửa chửa di chúc của cô Dora. Điều đó có nghĩa là bà O Donnell biết rằng bà ấy được chọn làm người thừa kế duy nhất. – Thế tại sao bà ấy không nói gì cả. – Đó là câu hỏi lớn thứ hai. – Justus ngả người ra lưng ghế và bắt đầu đưa tay cấu cấu môi dưới. – Trời đất ơi, cái vụ án nầy mỗi lúc một rắc rối hơn, – Bob rên lên thành tiếng. – Tại sao bà Elouise phải giết chết cô Dora để rồi sau đó không thèm vào ở trong nhà của cô ấy? Tại sao bà Bernadette biết đến sự sửa chửa di chúc, mà không hé một lời? Tất cả những chuyện nầy sao vô lý quá! – Có lý chứ, Bob, có lý, – Justus quả quyết nói. – Chúng ta chỉ thiếu chiếc chìa khoá quyết định thôi. Tiếng lạch cạch nhè nhẹ giật Thám tử trưởng ra khỏi dòng cân nhắc. Họ nhận được một bản fax. Ngay khi tờ giấy đầu tiên được máy chuyền ra, Justus tò mò cầm ngay lên. – Đây là bản báo cáo của cảnh sát do chú Cotta gửi tới! Có thể chúng ta sẽ nhận được những câu trả lời mới. – Thám tử trưởng đọc chăm chú rồi sau đó đưa từng tờ giấy cho hai cậu bạn mình. Bản báo cáo dài tất cả 8 trang, và ghi lại ngày và giờ chính xác xoay quanh cái chết của cô Dora Mastratonio, kết quả khám nghiệm của bác sĩ cũng như biên bản hỏi cung bà O Donnell, bà đã, tiến sĩ Jones, bà Gomez cũng như cặp vợ chồng nhà Willow. thế nhưng sau khi đọc tất cả các dữ liệu đó, bộ ba thám tử chỉ thấy những gì mà họ đã biết sẵn. Cáu kỉnh, Bob thả người rơi ra lưng ghế sau khi đã đọc xong trang cuối cùng và uống cạn tách trà. – Đúng là phát bực lên được. Mình cứ tưởng, chúng ta sẽ nhận được một lời mách bảo qua bản báo cáo nầy, nhưng không phải thế. – Mình không quả quyết như vậy đâu, – Justus nói và chỉ vào một tờ giấy. – Ở đây mình đã tìm thấy một yếu tố hết sức thú vị. Cụ thể là thời điểm xuất hiện chính xác của chiếc xe cứu thương tại toà biệt thự. Bob, nhà thương gần nhất cách toà biệt thự của cô Mastratonio bao xa? – Sao kia? Chuyện nầy liên quan gì đến vụ án của chúng ta? – Cậu có biết hay không nào? – Không, không biết. -Còn Peter? – Mình tin rằng, nơi gần nhất là bệnh viên Memorial. Nó nằm cách nơi đó vài dặm về phía Bắc. Nhưng câu hỏi ngu ngốc nầy là nghĩa gì hả, Justus? – Mình cho cậu thêm 100 điểm, Thám tử phó. Đó chính là bệnh viện Memorial. Theo như dữ liệu của bản báo cáo cảnh sát. Thế cậu nghĩ sao, một chiếc xe chúng ta cần bao nhiêu lâu để lên đường từ đó sau khi nhận được cú điện thoại, và đi tới biệt thự? – Mình đoán khoảng 10 phút. Nếu họ bật đèn báo động thì chỉ cần tám hay bảy phút. Justus gật đầu. – Như vậy thì với những điều kiện giao thông thuận lợi nhất, liệu một chiếc xe chúng ta có thể đi đoạn đường đó trong vòng ba phút không? Thám tử phó lắc đầu. – Hoàn toàn không có khả năng đó. Kể cả trực thăng cũng không nhanh như thế! Justus hài lòng mỉm cười. – Nhưng theo đúng bản báo cáo của cảnh sát thì chuyện nầy đã xảy ra: Chiếc xe chúng ta đã đến toà biệt thự của cô Mastratonio vào lúc 4 giờ 3 phút. – Thì đã sao? Vậy thì nó đã nhận được cú điện thoại vào lúc 4 giờ kém 7 phút, Peter đáp trả. – Không,không phải như vậy. Bởi vì bà giúp việc Gomez, người bao giờ cũng đến rất đúng giờ, luôn luôn đúng giờ, đúng từng phút một. Có phải bà ấy kể đến hàng trăm lần cho cậu nghe như vậy không, Peter? Mặt Peter sáng lên. – Cậu có lý, Justus! Đúng thế! Bà ấy bước vào nhà đúng lúc 4 giờ, nhìn thấy cô Dora nằm ở chân cầu thang và gọi điện cho xe chúng ta và… – Và cài xe nầy đã đến sớm hơn mọi khả năng có thể, – Bob nói tiếp dòng suy nghĩ. – Điều đó có nghĩa là, phải có ai đó gọi điện cho bệnh viện từ trước. – Và điều đó lại có nghĩa là, người giật chuông báo động cho bệnh viện không phải là bà Gomez nhưng không có nghĩa là bà ấy không gọi điện đến bệnh viện – Mà chính vào thời điểm bà ấy quay số điện thoại thì cái xe chúng ta đã đang trên đường đi tới. Chỉ có điều không ai nhận ra điều đó. Bà Gomez thì mừng rỡ vì nó đến nhanh, tại sao bà phải suy nghĩ thêm về chuyện đó mới được chứ? – Justus đã ngồi thẳng lên như một cây nến. Cậu cảm nhận rõ là lời giải của cậu đố đã đến rất gần họ. – Khi cô Dora Mastratonio ngã từ chân cầu thang xuống, chắc trong nhà phải còn có một người khác, người đó gọi cho xe chúng ta rồi sau đó trốn đi. – Elouise đã! – Peter kêu lên và đưa tay về chiếc ảnh mà họ đã lấy ở tầng hầm của ông Willow.- Tấm ảnh nầy chứng minh điều đó! – Đúng thế. Nhưng liệu như vậy có phải rằng bà đã là một kẻ sát nhân không? Rằng bà ấy đã đẩy cho cô Dora ngã từ trên cầu thang xuống rồi sau đó trốn đi? Không, những dữ liệu nầy lại không mang ý nghĩa như vậy! Vì nếu có thì bà ấy đã không gọi điện cho xe cứu thương. Mặc dầu vậy, chắc chắn bà ấy phải có một lý do để khẳng định với cảnh sát rằng, vào ngày hôm đó bà ấy không ở vùng Malibu. Lý do nầy có thể là chuyện gì? – Còn một người nữa trong nhà! – Peter kêu lên. – Có lẽ, Thám tử phó. mặc dù cũng không thật đặc biệt… – Không phải là có lẽ, Justus, mà là tuyệt đối chắc chắn! Đây nhìn xem trên ảnh nầy! Còn người nữa! – Cậu nói cái gì thế? Xúc động, cả Bob và Justus cùng cúi sát xuống tấm ảnh. Thoạt nhìn, họ chỉ thấy bà Adams trong phòng làm việc, thấy bà nầy đang la hét về phía cô Dora đang đứng ở hành lang, nhưng rồi sau đó Peter chỉ vào một cánh cửa mở. Đằng sau đó có lờ mờ một dáng người. Tấm ảnh quá nhỏ để có thể nhận biết hơn, nhưng rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa: trong ngôi nhà còn một người thứ ba. – Không thể có chuyện đó được! – Bob buột kêu lên. – Có ai đó đang nấp sau cánh cửa! Nhưng chỉ có máy ảnh mới phát hiện ra chuyện đó. Ở vị trí của mình, bà Adams không thể nhìn thấy người nầy. – Không thể hiểu nổi. Mười hai phút trước khi chết, cô Dora không phải chỉ có khách thăm là bà Adams, mà còn thêm một người khác nữa. Các bạn ơi, bắt đầu! – Justus nhảy lên và cố chạy bổ về phần sau của chiếc xe cắm trại. – Cậu định làm gì, Justus? – Hỏi sao ngốc thế, Peter. Ta đi vào phòng thí nghiệm và phóng to cái ảnh lên! Sau đó chúng ta sẽ biết đó là ai. Trong góc sâu của Bộ tham mưu có một phòng thí nghiệm nhỏ, nơi người ta có thể che tối hoàn toàn và qua đó cũng có thể sử dụng làm nơi rửa ảnh. Nhiệm vụ của Bob bây giờ là đổ các hoá chất cần thiết vào trong những chiếc khay bằng nhựa và chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Vì họ không có phim, nên Thám tử Thứ Ba chụp lại tấm ảnh rồi sau đó rửa ảnh mới, to hết cỡ. Tò mò, cả bộ ba cùi xuống tấm giấy ảnh trong khi nó từ từ xuất hiện trong khay rửa. Thế rồi Bob thận trọng dùng một chiếc kìm kéo nó lên, nhúng nó vào dung dịch định hình rồi sau đó đưa sang bồn nước. Cuối cùng, cậu treo tấm ảnh lên dây, chờ nó khô. – Khốn kiếp! Ta vẫn chưa nhìn ra đó là ai, – Peter khẳng định. – Mình chỉ nhìn thấy lờ mờ một dáng người. Và một chiếc giầy thò ra dưới tấm cửa. – Nếu mình có được trong tay phim gốc, chắc là chất lượng ảnh sẽ tốt hơn, - Bob nói, – nhưng mà như thế nầy… – Ít nhất thì ta cũng nhìn được rõ ràng chiếc giầy, – Justus nhận định. – Và đây rõ ràng là giầy đàn bà. Giầy màu đen, đế thấp và có quai rộng, khoá bằng thép. Bọn mình không tìm ra được cái giầy nầy thì ngượng quá. Peter cười khúc khích. – Ý cậu muốn nói như trong truyện cổ tích “Nàng lọ lem”? Chỉ có điều lần nầy ai đi vừa chiếc giầy đó không phải là một nàng công chúa, mà là một nữ sát nhân. Thám tử trưởng lắc đầu. – Không phải một nữ sát nhân. – Không phải kẻ giết người ư? Tại sao lại không? – Trong khi Bob phóng to tấm ảnh nầy, mình đã điểm lại tất cả các sự kiện. – Cậu nói lăng nhăng gì thế? – Và qua đó mình đã hiểu ra rằng, chuyện ai đứng đằng sau cánh cửa đó không mấy quan trọng. Chỉ riêng chuyện đã có người đứng ở đó cũng đã dủ là một lời mách bảo. – Một lời mách bảo về hướng nào? – Peter hỏi. – Rằng trong toàn bộ câu chuyện Dora không phải chỉ có duy nhất một người đàn bà tham gia. Cho tới nay chúng ta vẫn lấy xuất phát điểm là những gì mà giọng Phantom kia nói lên là đúng