ó hình Cecilia Jones với một người đàn ông tóc đen điển trai – người chồng đã chết của bà, một tấm ảnh đám cưới bên cạnh cho Bob biết như vậy. Bob dứt ánh mắt ra khỏi dãy ảnh, vội vàng đi về phía hành lang, rồi từ đó theo cậu thang xuống cửa ra vào. Cửa chỉ sập vào ổ, không bị khoá thêm. Peter và Justus đã chờ sẵn phía bên kia. – Vụ vừa rồi mình làm thế nào? – Tuyệt lắm đấy, Bob. – Thôi đi nào, mình đâu có đến nỗi tệ thế! – Không tệ, – Peter nhận xét. – Mặc dù trông cậu giống một cái bao tải ướt được treo trên dây phơi quần áo, nhưng ngoài ra thì mọi thứ cũng tàm tạm được. Justus và Peter bước váo phía trong toà biệt thự và Bob đóng của lại. – Được, giờ bọn mình đã vào đến trong, – Peter nhận định. – Rồi sao nữa? Ta đi tìm cái gì bây giờ, Justus? – Không biết. Tìm tất cả. Ta hãy thử vẽ một bức tranh miêu tả ba bà cô đáng kính kia. Họ làm gì? Trước đây họ làm gì? Quan hệ của họ với cô Dora thật sự tốt tới mức nào? Hãy để ý đến những thứ giấy tờ có thể chúng ta biết về tình hình tài sản của họ. Về những chuyện riêng tư của họ. Đúng thế, về tất cả mọi thứ. Tốt nhật là ta chia nhau ra. Mình xem xét ở tầng dưới nầy trước đã, hai cậu lên trên trước đi! Ở tầng dưới có căn bếp, một buồng tắm, phòng ăn và phòng khách mà bộ ba thám tử đã quen. Ngoài ra còn khu đại sảnh với những bậc cầu thang và một phòng kho nhỏ. Trời lúc đó đã hơi tối, nhưng Justus không dám bật điện. Ở góc nầy góc kia vẫn còn để ngổn ngang những hộp Carton đựng đồ chuyển nhà. Justus thận trọng mở hết nắp hộp nầy đến hộp khác, nhưng chỉ tìm thấy sách vở và bát đĩa. Kể cả phần còn lại của tầng nhà cũng hoàn toàn bình thường, không một dấu hiệu khả nghi. Mười phút trôi qua, Justus đã thật sự không biết cần phải tìm ở đâu nữa. Bối rối, cậu đứng bên dàn nhạc có giá trị vài chục ngàn đô la, một dàn nhạc có thể đưa lại một giọng Phantom trong trạng thái trong trẻo rõ ràng như thuỷ tinh. Nhưng cũng chẳng đáng ngạc nhiên, cô Dora thời còn sống là nữ danh ca và người mê âm nhạc. Dàn máy nhạc nầy hoàn toàn không phải chuyện bất bình thường, dù thoạt đầu nó có gây ấn tượng xa lạ đối với khung cảnh, ngôi nhà và những đồ gỗ cổ kính nầy. Justus đưa ánh mắt quét qua cả dãy những bàn điều khiển, và những màn hình thông báo, chiếc máy CD với hai góc có gắn microphon và… Justus bất chợt sững sờ. Tại sao ở đây có microphon? Tiến sĩ Jones đã nói rằng dàn nhạc nầy không có microphon mà? – Justus! – Thám tử trưởng giật nảy người lên. Peter đã đến sát sau lưng cậu mà không gây một tiếng động. – Justus, lại đây, Bob tìm được cái nầy! – Cậu làm mình hết hồn! Nhìn nầy, mình vừa phát hiện một thứ! – Dù là thứ gì thì cũng không giật gân như thứ mà Bob vừa tìm thấy đâu! - Thám tử phó tóm lấy cánh tay Justus và nhanh lẹ kéo thẳng cậu lên lầu trên! Bob đang đứng trong phòng làm việc của cô Mastratonio và cầm một tập giấy trong tay, chăm chú đọc tờ trên cùng. Khi Justus bước vào phòng, cậu dí ngay tờ giấy đó xuống mũi Thám tử trưởng. – Cái nầy mình tìm thấy trong ngăn kéo. Dĩ nhiên ngăn kéo bị khoá, nhưng đó không phải là chuyện khó đối với Peter. – Cái gì thế? – Tin quả tạ đấy! Thử đọc mà xem! Justus quan sát tờ giấy. Nó được viết bằng mực đen, chữ rất đẹp, mềm mại. Cậu đọc đoạn văn. Rồi cậu đọc lần nữa. Rồi một lần nữa. Cuối cùng cậu nói: Một bản di chúc. – Một bản sửa đổi dưới chúc, – Bob sửa lại. – Của cô Dora Mastratonio. Nó nằm ngay trên đầu chồng giấy nầy. Trong đó cô Dora ấn định rằng trong trường hợp cô ấy qua đời, toà biệt thự không được trao cho Elouise Adams như đã lên kế hoạch trước, mà chính Bernadette do mới là người được thừa kế tất cả! Thế nầy thì… – Quả là một tin quả tạ! mình nói mà. – Điều nầy có nghĩa là, toà biệt thự chẳng phải của bà Adams, – Peter nói. - Mà của bà O Donnell! Justus nhăn trán, mắt không rời tờ giấy. Thế rồi cậu chầm chậm lắc đầu. – không, không có nghĩ như vậy đâu. Cô Dora đã lên kế hoạch như thế, đúng vậy. Nhưng đây chỉ là một bản thảo, không phải một bản di chúc có hiệu lực. Nó được viết bằng tay, không có chữ ký của công chứng viên và không được đóng dấu. Mình không tin là nó có thật sự có hiệu lực. Bản di chúc có hiệu lực chắc đang được lưu trữ ở chổ ngài công tố viên, và trong trường hợp nầy thì bà Adams đang là người thừa kế. – Thế điều đó có ý nghĩa gì? – Peter hỏi. – Điều đó có nghĩa là Dora đã có ý định thay đổi di chúc của mình và thay người thừa kế thành bà O Donnell. Thử nhìn vào ngày tháng mà xem! Bản thảo nầy được làm vài ngày trước khi cô Dora chết. Chắc là cô ấy đã định cầm bản thảo đến công chứng viên và thực hiện việc thay đổi. Nhưng cũng rõ ràng là điều nầy không thể xảy ra, bởi suy cho cùng thì bà Adams vẫn là người thừa kế. Và tại sao? Trong một lúc, không ai nói một lời. – Vì trước đó, cô ấy đã bị giết chết! - Peter kinh hoàng thầm thì. – Nhưng mà điều nầy có nghĩa là… có nghĩa là… – Có nghĩa là cuối cùng đã có một người nào đó có động cơ giết cô Mastratonio. Một người nào đó muốn ngăn cản là việc sửa đổi di chúc được thực hiện. – Elouise Adams, – Bob nói. Đột ngột, một tia chớp chiếu vào căn phòng. Cả bộ ba thám tử giật nảy lên. – Cơn giông bắt đầu rồi đấy, – Peter nhận xét. Justus lắc đầu. – Không phải cơn giông đâu! Có người đã chụp ảnh bọn mình! Chụp từ phía ngoài kia! – Thám tử trưởng lao đến bên cửa sổ, nhưng Bob còn kịp giật cậu về trong tích tắc cuối cùng và dúi cậu vào một góc chết của căn phòng, nơi người phía ngoài của sổ không nhìn thấy được. – Cậu điên hay sao! Nếu ngoài kia thật sự có kẻ nào đó có thể nhìn thấy bọn mình, thì bọn mình là kẻ có tội! Bọn mình đã đột nhập trái phép vào toà biệt thự nầy, Justus, quên rồi sao? Justus giận dữ giật người ra. – Chắc chắn là bọn mình đã bị người ta nhìn thấy rồi , còn nếu không thì cậu giải thích tia chớp đó ra sao? Mình chỉ muốn biết kẻ nào vừa chụp ảnh thôi! – Cậu thận trọng dán mình vào tường, chuyển động đến bên cửa sổ và hé mắt ra ngoài. Đứng ở đây cậu có thể nhìn thấy một phần của khoảng vườn trồng hoa hồng, một đoạn phố phía ngoài kia và ngôi nhà của vợ chồng ông Willow. Những đám mây trĩu nặng nước mưa bây giờ hầu như đã đổi màu đen. – Không thấy một người nào. Điều đó có nghĩa là… Khoan đã! Một chiếc xe ô tô đang đi dọc con đường, giảm tốc độ rồi cuối cùng dừng lại trước khuôn viên. Cửa mở ra và người lái xe bước xuống. – Các bạn! – Justus kêu nhỏ. – Biến thôi! Ngay lập tức! – Cái… cái… cái gì thế? – Peter sợ hãi hỏi. – Tiến sĩ Jones! Cô ấy quay trở lại! - Ô không! – Peter kêu lên. – Bây giờ biết làm gì? Không được phép cho bà ấy bắt gặp bọn mình ở đây! – Thì mình đã nói rồi , biến đi thôi! Bob , bọn mình mang chỗ giấy theo! Thám tử Thứ Ba đút tập giấy vào ba-lô. Chỉ trong chớp mắt, cả bộ ba đã rời phòng làm việc và tiến ra phía hành lang dẫn xuống dưới, Nhưng đúng lúc đó đã có tiếng lạch cạch của chìa khoá trong ổ. – Muộn rồi ! – Peter rít lên. – Bây giờ làm sao? – Qua cửa sổ! Họ quay trở lại và chui vào phòng làm việc của tiến sĩ Jones. Không một giây quá sớm, bởi ngay khi Bob là người cuối cùng bước chân vào phòng làm việc, thì cánh cửa ra vào ở bên dưới nhà đã mở ra và tiền sĩ Jones bước vào, trên hai cánh tay ôm một loạt những túi mua đồ đầy ắp. Bob quan sát người đàn bà qua kẽ cửa. Nếu cô ấy vào phòng khách, thì họ có thể bạo gan biến ra ngoài qua cửa ra vào. Nhưng không! Người phụ nữ không vào phòng khách. Cô ấy đi thẳng về phía cầu thang. – Cô ấy lại đây! – Bob nói nhỏ. – Đi thôi! Peter là người đầu tiên đến bên cửa sổ. Những thanh sắt đứng tương đối sát, và trong một thoáng cậu đã e rằng mình sẽ bị kẹt ở trong nầy. Nhưng rồi cậu dồn sức chui lọt được người qua và nhảy xuống. Sau đó đến lượt Bob. Cậu không gặp khó khăn gì, lẹ làng chui sang bên kia, và xuống dưới còn nhanh hơn cả Peter. – Giờ cậu, Justus! – Bob thầm thì. Thám tử trưởng không động đậy. Justus? – Đồ tiếu lâm nhà các cậu! – Cuối cùng bộ siêu não rít lên. – Làm ơn chỉ cho mình biết, mình làm thế nào mà chui qua được hả? Mình đâu có gầy trơ xưong như các cậu, quên rồi sao? – Justus thử đút một cánh tay qua chấn song sắt, nhưng chỉ đến vai là cậu đã bị tắc. Cố gắng cũng chẳng được ích gì. – Tìm chỗ nấp đi! – Peter kêu nhỏ. Ngay lúc đó tiếng bước chân đã vang lên gần cửa. Justus không còn lựa chọn nào khác. Cậu ném mình xuống nền phòng và còn kịp lăn vào gầm giưòng trong tích tắc cuối cùng. Cửa mở ra và tiến sĩ Jones bước vào, ném những túi mua đồ lên giường rồi thở dai thả người xuống chiếc ghế trong góc phòng. Justus co chân lên, cuộn tròn người lại, thầm mong không bị phát hiện. Tiến sĩ Jones ngồi cả phút đồng hồ không động đậy, thế rồi bà lại nhỏm người lên và rời phòng. Justus dỏng tai lên nghe ngóng. Ở đâu đó có tiếng nước chảy, chắc là tiền sĩ Jones đang ở trong phòng tắm. Hoặc bây giờ hoặc không bao giờ nữa! Cậu bò từ dưới gầm giường ra, nhổn người lên và rón rén ra phía hành lang. Không thấy bóng một ai. Nhẹ nhàng như có thể, cậu chạy dọc theo cầu thang xuống dưới, mở cửa không một tiếng động rồi rời toà biệt thự. – Xuỵt! Justus! Lại đây! Bob và Peter đang khom người ngồi phía dằng sau một chiếc ghế dài bằng gỗ trong vườn. Họ chìm toàn thân vào trong những bụi hoa hồng, không một ai đứng ngoài có thể nhìn thấy họ. Justus nhập váo nhóm. – May quá. Mình cứ nghĩ bọn mình có nhiều thời gian hơn một chút để mà tìm tòi. – Cái quan trọng nhất thì bọn mình đã tìm thấy rồi , – Bob nhắc nhở và đưa tay vuốt ve ba-lô của cậu. – Giờ tìm cách biến khỏi đây thôi! – Khoan! – Justus cảnh báo. – Cậu đã quên mất nhiệm vụ thứ hai rồi sao, ta còn phải thực hiện xong chuyện đó nữa. Dấu vết của kẻ lạ mặt bên cửa sổ! Trơì có thể mưa bất cứ lúc nào, và vết bột sẽ tan hết. – Nếu có vết bột thật, – Bob thêm vào. – Nếu có vết bột. Tiến sĩ Jones bây giờ ở tầng trên. Nếu bọn mình rón rén áp người đi dọc tường nhà, cô ấy sẽ không nhìn thấy bọn mình! Đi thôi, nhanh lên, trước khi cả hai bà cô đáng kính kia cũng quay trở lại nốt! Họ rời chỗ nấp và đi vòng quanh toà biệt thự. Cho tới khi họ sang tới hướng bên kia, tới bên khuôn cửa sổ của phòng khách. Ánh sáng còn vừa đủ để họ săm soi luống đất trồng hoa. Vết bột không nổi bật hẳn lên, nhưng vẫn đủ rõ cho họ bám theo. – Cái bẫy của mình hoạt động rồi , Justus! – Peter vui vẻ kêu nhỏ. -Khẽ thôi! – Bob nhắc nhở. – Nếu cậu cứ tiếp tục la hét như thế, tiền sĩ Jones sẽ nghe thấy bọn mình đấy. – Đúng là cái bẫy hoạt động rồi. Kẻ lạ mặt đã bước vào khoảng đất có rải bột mỳ, khi gã quan sát bọn mình qua cửa sổ, và tiếp tục tha bột đi chỗ khác. Giờ chỉ còn câu hỏi nầy thôi – gã rải dấu vết bột mỳ nầy bao xa và đi đâu? Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống nhỏm mũi Justus. Rất nhanh chóng, cơn mưa đổ xuống sầm sập. Giờ không được phép lãng phí thời gian. Cả bộ ba cúi người thấp hơn nữa xuống dưới bại cỏ và bám theo vết bột mỳ, đi một đoạn dọc tường nhà rồi cuối cùng đến bên khoảng bờ rào, ngăn cách vườn hoa hồng với khuôn viên của nhà Willow. Tới đó, vết bột biến mất trong một bụi rậm đầy gai. – Làm sao mà mình hiểu nổi đây? – Peter hỏi. – Kẻ lạ mặt đã biến vào một bụi rậm ư? – Cậu nhìn lên trên. – Gã không thể nhảy qua đây được, hàng rào nầy cao qua. Justus quan sát hàng rào kỹ hơn. Ở vĩ trí nầy, hàng rào rõ ràng cũng dày đặc như ở mọi vị trí khác. Mặc dầu vậy, sao nó có vẻ khang khác. Thám tử trưởng đưa tay sờ những chiếc lá, sờ nền đất, sờ gốc cây – và đột ngột nắm trong tay mình một khúc hàng rào rời ra. – Cái gì thế? – Bob ngỡ ngàng. – Chả lẽ bờ rào là cây giả? Justus quan sát bó cây nho nhỏ trong tay mình và nhìn kỹ hơn cái lỗ vừa xuất hiện. – Không, không phải cây giả. Nhưng đã có người khóet một lỗ hổng ở đây, rồi dùng bó cây nầy lấp vào chổ đó. Không một ai nhìn ra được, nhưng bụi cây làm cửa nầy có thể được lôi ra ngoài cả cành lẫn rễ bất cứ lúc nào. – Đơn giản đến thiên tài, – Peter nhận xét. – Vậy thì kẻ lạ mặt trong buổi cầu hồn đầu tiên của bọn mình đã chui qua cái lỗ nầy mà biến đi. Logic, tối như thế thì bọn mình làm sao nhìn thấy được điều gì. – Giờ chỉ còn câu hỏi cái lỗ nầy dẫn đi đâu, – Justus nói. – Đi đâu nữa, sang vườn của ông bà Willow, – Bob nói. – Chắc không? – Thám tử trưởng quì xuống trên cả tứ chi và bắt đầu bò qua cái lỗ trên bờ rào. Nhưng thay vì sang với thảm cỏ được cắt rất gọn gàng của khuôn viên hàng xóm, cậu lại va phải một bức tường bằng gỗ. Cậu gõ vào nó. Nghe có vẻ rỗng, vậy là lần gỗ nầy không dày. Justus ấn ấn và tấm gỗ nhượng bộ, xoay quanh một bản lề lên phía trên. – Mình đã đoán trước mà! – Justus lẩm bẩm và bò tiếp, bò tiếp vào với bóng tối hầu như tuyệt đối. Chỉ có một thứ ánh sáng màu xám xịt rất yếu ớt hắt được qua một khuôn cửa sổ nhỏ xíu, bẩn thỉu. Cậu đứng dậy và chờ cho tới khi Peter và Bob tới nơi. – Có ai đem đèn theo không? Một chút sau đó thôi, Bob thắp lên một ngọn lửa nhỏ từ chiếc bật lửa chống bão của cậu và bộ ba thám tử hiểu ra họ đang ở đâu. – Đây là một cái lều đựng đồ làm vườn! – Peter nhận định khi nhìn thấy cái máy cắt cỏ đệ trong một góc, một chiếc bàn thợ tiện nho nhỏ và một loạt máy móc làm vườn treo trên tường. – Nhận diện nhanh đấy, Justus nói. – Đây là nhà kho để máy móc của John Willow, sát ngay với hàng rào. Rõ ràng đã có người bắt vào đây một khung cửa ngầm, để bất cứ lúc nào cũng có thể ngấm ngầm tuồn sang khuôn viên của cô hàng xóm đáng yêu. Các bạn ơi, hôm nay thật sự là một ngày của những khám phá bất ngờ! – Justus cúi xuống, kéo bụi cây bí mật bằng gổ. Nhìn từ phía bên nầy, người ta hầu như không nhận ra cánh cửa. Bộ ba thám tử đưa mắt nhìn quanh, trong khi mưa đập ào ào lên phần mái nhà làm bằng gỗ trên đầu họ. Trên một chiếc kệ gỗ có để những lọ trồng hoa cũ. Bob nhấc một vài lọ lên. Qua lần kính bẩn thỉu của khung cửa sổ nhỏ xíu, người ta có thể nhìn tới ngôi nhà của ông bà Willow. Trong nhà có ánh đè. – Ngoại trừ cái cửa bí mật kia, có vẻ như trong lều nầy chẳng còn gì mà khám phá, – Sau một hồi tìm tòi, Peter nhận xét. – Nó là một túp lều đựng máy móc làm vườn, chỉ thế thôi. – Tắt điện đi! – Justus đột ngột rít lên và Bob ngay lấp tức sập bật lửa lại. – Ngoài kia có người! Bộ ba thám tử chen đến bên khuôn cửa sổ nhỏ xíu và nhìn ra ngoài. Cánh cửa vào nhà vừa mở ra, bà Willow bước ra ngoài trời đang mưa xối xả. – Nhanh lên, John, hay anh chờ cho tới khi em ướt như chuột lột đã hả? – bà Willow hổn hển kêu. Để tránh mưa, bà choàng một lần khăn nhựa có in hoa và so hai vai lên. – Ra xe trước đi! – Giọng nói bực bội của ông Willow từ trong nhà vang ra. Bà Willow vội vàng đi dọc đoạn phố, ngay sau đó cả người chồng của bà cũng rời nhà, đóng cửa lại và đi theo vợ. Cả ông cũng có vụ khí để đối chọi với cái ướt ngoài nầy: Một chiếc áo mưa màu đen óng ánh. - Nhìn thấy chưa! – Peter khấp khởi thì thầm. – Cái áo mưa! Kẻ lạ mặt bên khuôn cửa sổ đã mặc đúng y một cái áo như vậy! – John Willow, – Justus nói. – Ra chính là gã ta. Bộ ba thám tử quan sát ông Willow rời khuôn viên và bước lên một chiếc ô tô, vợ ông ngồi sẵn bên trong. Thế rồi máy xe được bật lên, họ lăn bánh. – Giờ chỉ còn câu hỏi ông Willow tìm cái gì ở phía bên nầy, – Thám tử Trưởng nói tiếp. – Có thể gã ta chỉ tò mò thôi, – Bob cân nhắc. – Cũng giống như vợ ông ta hả? Mình không tin thế. Mình nghi ông ta có liên quan đến thông điệp từ phía bên kia thế giới đấy. Đừng có hỏi mình là liên quan trong phương diện nào – nhưng ít nhất thì bọn mình cũng phải gắng tìm cho ra. Khi đã một lần tới được chỗ nầy… – Justus mở cánh cửa ra phía ngoài. Ngay lập tức, những giọt nước mưa lạnh như băng giá tạt vào trong. – Cậu định làm gì thế, Justus? – Bob hỏi. – Mình nghĩ là các cậu rõ cả rồi. Ta đi xem nhà của đôi vợ chồng Willow một chút. – Kìa, Justus! – Peter nổi cơn phản kháng. – Thôi đi, không bao giờ ta có một cơ hội thuận tiện hơn đâu. – Mình không biết, – Thám tử phó lẩm bẩm. – Cậu không thấy là ta đang đi quá xa sao? Rình mò sục sạo trong toà biệt thự là một chuyện. Nhưng suy cho cùng thỉ ở đó đang xảy ra những chuyện kỳ quặc và chúng ta đang điều tra trong một vụ án. Nhưng ông bà Willow thì liên quan gì đến chuyện nầy? – Ông Willow đã hai lần đứng bên khuôn cửa sổ và quan sát bọn mình, - Justus nhắc nhở. – Không đủ lý do để mà điều tra kỹ hơn hay sao? – Thế nếu đó chỉ là chuyện tình cờ? – Peter rụt rè. – Tình cờ, – Justus nhắc lại. – Cậu đã đứng sát bên khuôn cửa sổ của nhà hàng xóm biết bao nhiêu lần rồi, Peter? Không, không phải tình cờ đâu. Ông Willow có liện quan đến chuyện nầy. Và đây là lúc bọn mình có cơ hội để giải đáp câu đố. Không thể bỏ rơi cơ hội mà không tận dụng. Thám tử trưởng không chờ câu trả lời, bước thẳng ra ngoài trời mưa. Cúi người xuống, cậu lẹ bước chạy về phía cửa ra vào có mái che, nhưng mái che chỉ cản được rất ít nước mưa. Peter miễn cưỡng bước theo. – Nhanh lên, Thám tử phó, vào việc đi! Mình nghĩ khoá nầy không phải khoá an toàn, đúng không? Nhưng mà nhanh lên, bọn mình không muốn mang cả vũng nước mưa vào nhà. Bob đâu rồi không biết. – Cậu ấy tìm tòi cái gì đó, mình tin nhứ thế, – Peter nói, mắt quan sát ổ khoá. Vài tích tắc sau, Thám tử Thứ Ba đến bên họ. Cậu cười rộng miệng. – Quên cái chìa khoá vạn năng của cậu đi, Peter, mình có thứ tốt hơn! – cậu mở bàn tay ra đi. – Chìa khoá? Cậu lôi ở đâu ra thế? – Nó nằm trong lều gỗ kia, bên dưới một chậu đựng hoa. Mình dám cuộc rắng đây là chìa khoá dự trữ cho cửa ra vào. – Làm sao mà cậu biết? – Ai thì cũng có lúc giấu một chìa khoá dự trữ vào đâu đó. Hoặc là bên dưới thảm chùi chân hoặc trong ống xối nước mưa hoặc trong một cái chậu trồng hoa. Chuyện xưa như trái đất mà! – Tin chắc vào chiến thắng, Bob thử đút chìa khoá vào ổ, nhưng nó không hợp. – Xưa như trái đất hả? – Peter châm chọc. – Chẳng ích gì đâu, Bob! Xê ra cho chuyên gia vào cuộc! – Cậu rút ra một chiếc túi nhỏ màu đen, trong đó đựng một số móc sắt dày mỏng khác nhau, rồi ngay lập tức bắt tay vào việc. Chỉ trong vòng chưa đầy một phút đồng hồ, cửa đã mở ra. – Trò trẻ con! – Không có cậu thì bọn mình chẳng biết sẽ đi tới đâu đây, Thám tử phó. – Nói đúng đấy, Thám tử trưởng. Bộ ba thám tử bước vào ngôi nhà của ông bà Willow. Cả ở đây họ cũng không dám bật đèn lên, sợ bị phát hiện. Ban đầu, họ chuyển động trong ánh sáng phát ra từ chiếc bật lửa trong tay Bob, nhưng rồi Justus tìm thấy một chiếc đèn pin. Cậu giơ tay che mặt đèn và cả ba tìm tòi trong ngôi nhà dưới quầng sáng yếu ớt đấy. Ngôi nhà nầy nhỏ hơn hẳn so với toà biệt thự của Mastratonio, chủ yếu chỉ gồm một căn bếp, phòng tắm, phòng ngủ và phòng khách. Căn phòng nào cũng được trang trí rất khủng khiếp và chỉ sau năm phút, Bộ Ba quả thật không thể tưởng tượng nổi là ở đây còn chứa một bí mật nào nữa. – Ta quên nó đi, – Peter đề nghị. – Ở đây chẳng tìm thấy gì nữa đâu. Bob gật đầu. – Mình cũng tin thế. Ngoại trừ trong những mãng khăn phủ bằng len móc tay kia có ẩn chứa những mẩu bản đò của một kho báu, nhưng mình e răng không có chuyện đó đâu. Đôi vợ chồng nhà Willow nầy vừa thiển cận vừa nhàm chán như ngôi nhà của họ nậy. Chẳng có bí mật nào cả. Đi thôi, Justus, ta đi. Thám tử trưởng nhăn mặt. Cậu không thể cãi lại được lời bạn mình, cả cậu cũng không tin rằng họ sẽ còn tìm thấy một thứ gì khác. Mặc dầu vậy, cậu vẫn thấy khó chịu khi phải rời bỏ nơi nầy nhanh tới thế. – Tầng hầm! – cậu nhớ ra. - Bọn mình chưa xuống tầng hầm. Peter nhăn trán. – Cậu nghĩ xuống đó thì ta sẽ tìm thấy một thứ gì khác ngoài dàn lò sưởi sao? – Rồi ta sẽ biết. Dù chỉ là để kiểm tra cho toàn diện thôi: ta phải xuống tầng hầm. Những bậc thang bằng đá rất dốc, hai bên tường óng ánh vễt ẩm. Một bóng đèn trần trụi lủng lẳng dưới trần, nhưng nó quá yếu, gây ấn tượng như chỉ toả ra nhiều bóng tối hơn là ánh sáng. Có ba cánh cửa bằng gỗ. Đằng sau cánh cửa thứ nhất là một gian nhà kho đựng đầy đồ hộp và một tủ lạnh lớn. Sau cánh cửa thứ hai là hệ thống lò sưởi cho toàn ngôi nhà. Cánh cửa thứ ba khoá kín. – Theo mình thì những cánh cửa khoá kín bao giờ cũng là thứ rất hấp dẫn đối với các thám tử, – Justus nói. Peter? Cậu nghĩ sao? Lại là chuyện trẻ con chứ? Peter cúi xuống ổ khoá, nhưng đúng lúc đó thì Bob bước lại gần và vung vẩy chiếc chìa khoá cậu tìm thấy trong túp lều để máy làm vườn. – Có thể là xác suất thấp, nhưng mà… – Thử đi! – Justus yêu cầu và Bob đút chìa khoá vào ổ. Chìa khoá rất hợp. Nó để cậu xoay nhẹ nhàng. Một tiếng ” click” nhỏ, ổ khoá bật ra. – Nếu có ai đó giấu chìa khoá cho một căn phòng tầng hầm trong túp lều để máy làm vườn… , – Bob cân nhắc. – Thì những gì được chứa trong c