Cái đầu lâu nhìn chằm chằm vào mặt Justus Jonas từ hai hốc trống trơn. Nụ cười trên những khúc xương trắng nhởn như đang chế giễu người ngắm nó. Justus thò tay về phía chiếc đầu lâu. Vừa được cậu nâng lên, quai hàm của nó ngay lập tức trễ xuống, biến nụ cười mỉm thành một cái cười ma quái ngoác toang. Justus thổi cho bụi bay ra khỏi cái đầu lâu và nhăn trán nhìn vào gương mặt chết chóc. “Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề”. – Ôi trời, Justus, cứ thế nầy thì không bao giờ bọn mình xong việc! – Peter thở phì ra lời than phiền từ phía sau. Thám tử phó trong nhóm Bộ Ba Đang loay hoay kiểm tra chiếc máy chữ đã cũ. Cả ba chàng thiếu niên đã quyết định bỏ thời gian để dọn dẹp thật cẩn thận Bộ tham mưu của họ. Cái gọi là Bộ Tham Mưu đó thật ra chỉ là một toa xe cắm trại cũ kỹ đang đày đến muốn tắt thở vì những đồ linh tinh đáng bỏ đi. Đại bản doanh thám tử nầy đứng trong khuôn viên của cửa hàng bán đồ cũ của ông chú Titus Jonas. Nữa muốn dọn dẹp cho nơi làm việc quang đãng hơn, bộ ba nữa còn muốn chuyển những món đồ linh tinh được tụ tập theo năm tháng sang cho chú Titus, mong kiếm vài đô la lẻ. Giờ ba cậu chàng đang ngồi trong cái cảnh hổn mang tối tăm đầy bụi bặm, giữa biết bao nhiêu là hòm và hộp Carton để mà xăm xoi đống “của báu” của họ. Càng lục lọi nhiều bao nhiêu, họ càng tiến chậm bấy nhiêu. Cứ mỗi một món đồ được lôi ra, là cả ba chụm đầu ngắm nghía rồi cãi sùi bọt mép xem đây là đồ ve chai hay một món kỹ niệm vô giá. Thám tử trưởng không bỏ một cơ hội nào để đưa ra những lời nhận xét trong một thứ văn rối rắm sặc mùi triết lý. Điều nầy khiến Peter phát điên. – Nếu cứ tìm thấy cái món đồ con con nào mà cậu cũng dành ra cả nửa tiếng để phân tích dẫn văn của Goethe thì đến năm sau bọn mình cũng chưa dọn dẹp xong. Justus không rời ánh mắt khỏi cái đầu lâu, cất cao giọng kịch trường giảng giải tiếp: – Dù cao quí chịu đựng những mũi tên và hòn đạn của số phận bạo liệt hay vùng dậy chấm dứt nỗi khổ đau bằng kháng cự”. Mà nầy, Peter, đây không phải là văn của Goethe, mà là của Shakespeare. Hay nói một cách chính xác thì đây là lời của hoàng tử Hamlet. Bob Andrews xoay đầu lại. Cho tới nay cậu vẫn bỏ qua trò cãi cọ của hai anh bạn vì mải chăm chú vào chuyện chùi sạch mấy chiếc khung tranh cũ kỹ. – Sokrates. – Cái gì thế? – Peter hỏi. – Geothe, Shakespeare, Hamlet hay là Sokrates? – Mình không muốn nói đến câu trích dẫn, Peter, mà cái đầu kia! Đó là đầu Sokrates, cái đầu lâu biết nói mà ảo thuật gia Gulliver đã tặng cho bọn mình! Trời đất, mình quên khuấy đi mất. Justus, cái nầy không thể bán được đâu, cái nầy ta phải giữ lại trong Bộ tham mưu. – Mình đồng ý vô điều kiện, Bob, Sokrates sau nầy sẽ được đưa vào viện bảo tàng Bộ Bob Andrews. – Thám tử trưởng bắt dầu cười khúc khích. – Các cậu còn nhớ cô Mathilda hồi đó suýt chút nữa thì lên cơn đau tìm khi nghe Sokrates chào “Buhhh!”? Bob cười. – Sao lại không nhớ, buồn cười đến nôn bụng! – Trời ạ! Vừa nhắc đến cô Mathilda, – Peter nói và lo lắng nhìn qua khuôn cửa sổ, – thì bà cô của cậu đã sải bước về phía nầy rồi đấy. Các bạn đồng nghiệp ơi, tôi có linh cảm không tốt chút nào. Chỉ vài tích tắc sau, có tiếng gõ rất mạnh vang lên bên cửa. – Mời vào! – Justus nói. Cô Mathilda Jonas bước váo Bộ tham mưu của ba thám tử và giận dữ nhìn lần lượt Bob, Peter, Justus, rồi đến Sokrates. – Buhhh – Justus kêu lên và buông cho hàm dưới của cái đầu lâu mở ngoác ra. Cô Mathilda thốt lên một tiếng kêu ngắn rồi giật lui về một bước. – Justus Jonas! Cháu nghĩ thế nào mà lại đi doạ nạt bà cô tội nghiệp của cháu như thế hả! Lại đúng vào lúc các cậu có những chuyện quan trọng và gấp gáp hơn nhiều! Mấy ông cháu tôi làm sao thế hả, tại sao chưa bắt tay vào việc? – Việc gì kia ạ? – Justus ngạc nhiên hỏi và đặt Sokrates lên bàn. – Còn việc gì nữa! Phải quét sơn lại cho khu nhà văn phòng! – Hôm nay sao cô? – Phải, dĩ nhiên là hôm nay. Thế suốt cả tuần qua cô nói chuyện gì vậy hả? – Cô nói là chủ nhật. Cháu cứ tưởng cô nói chủ nhật sau. – Không tưởng với tượng gì hết, Justus Jonas, ý cô nói là chủ nhật nầy. Đi nào, cô đang cần các cháu giúp đỡ đây. Nếu cuối tuần nầy mà ta không làm cho xong thì lại kéo dài cả vài tháng nữa cho coi. – Nhất quyết phải thế sao cô? – Peter rên lên. – Đúng thế, – Mathilda Jonas nói bằng vẻ quả quyết. – Chắc chắn phải như vậy. Mái của ngôi nhà văn phòng dày cộm một lớp bụi và rác. Lá khô và bụi của rất nhiều năm trời đã trộn với nước mưa và được mặt trời nung nóng, biến thành một lớp vảy nâu xám, cứng trơ trơ dưới sức chùi của chiếc bàn chải bằng sắt. Peter loay hoay cọ chỗ nầy một chút, chỗ kia một xíu, nhưng kết quả bao gìơ cũng giồng nhau: Lớp bụi dứt khoát không chịu bong ra. Không có một lớp mặt sạch sẽ, đâu có ai dàm nghĩ đến chuyện quét sơn mới. Bực dọc, cậu quì xuống, đưa tay che mắt cho đỡ chói nắng rồi nhìn sang phía Bộ tham mưu. Bộ tham mưu của các cậu cũng bẩn thỉu y hệt như ngôi nhà mà Peter đang cưỡi bên trên. Mặc dầu vậy, chắc cả đời cậu và hai cậu bạn không bao giờ nghĩ đến chuyện khoác cho nó một lần sơn mới. Tại sao cô Mathilda cứ khăng khăng muồn làm đẹp ngôi nhà văn phòng nầy thế nhỉ? – Phía trên sắp xong chưa đấy! – Justus nói từ phía dưới lên. – Mình chẳng nghe thấy tiếng cậu cọ chùi gì nữa cả! – Ta có thể đổi chỗ cho nhau, Justus! Lớp bụi trên nầy hoàn toàn không nghĩ đến chuyện bung ra. Mình dám cuộc là đã có người dán chặt nó vào đây. Trên mái nhà nầy là toàn bộ khí thải của Los Angeles suốt hai năm qua được dán dính với nhau! – Thế câụ tưởng dưới nầy khá hơn hả? – Bob chen vào. – Nầy các cháu, nếu không dốc sức vào làm mà chỉ mải than thân trách phận thì không bao giờ xong việc đâu! Phải xoay lại. Cô Mathilda Jonas vừa ló ra từ phía sau lưng họ. Trên gương mặt cô là một nụ cười khoái trá, hai tay cô bưng một chiếc khay lớn có để ba chiếc cốc khổng lồ đựng nước cam vắt và một chiếc bình cũng đầy tới cổ. Cô không muốn mấy chàng thợ thủ công của cô bị chết khát. – Thế còn bánh anh đào thì sao ạ? – Justus hỏi, lòng đầy hy vọng, mặc dầu cậu chàng mới dùng bữa điểm tâm cách đây có hai giờ. – Bánh sẽ xuất hiện chừng nào các cháu xong việc – làm phần thưởng. – Các bạn đồng nghiệp, ta tăng tốc lên một chút! – Justus chúng miếng bùi nhùi bằng sắt vụn vào nước và dốc sức kỳ cọ. Cả Bob và Peter cũng làm tiếp. Đúng là than vãn cũng chả được tích sự gì – họ càng xong sớm bao nhiêu thì càng nhanh có thời gian cho những việc khác bấy nhiêu. Cả ba chàng thiêu niên dốc sức cọ rồi chùi, chùi rồi cọ. Mặt trời đã lên cao hơn nữa trên nền trời xanh ngắt không gợn một chút mây. Trán Peter lấm tấm mồ hôi. Tất cả số nước cam đã được uống đến giọt cuối cùng và Thám tử phó giờ chỉ còn mơ đến mỗi một thứ là kết thúc công việc nầy và đi ra bãi biển, lao mình vào những con sóng Thái Bình Dương mát lạnh. Bob, ngược lại, không mong mỏi gì hơn là được ngồi bên một suất kem khổng lồ dưới một cây dù cũng khổng lồ bên con đường ven bãi cát và an nhàn nhắm những người đi dạo. Justus thì chìm đắm trong suy nghĩ được kết thúc nhát cọ cuối cùng, rồi thả người vào bóng râm, một mình xủ lý cả chiếc bánh kem anh dào. Ngày như dài vô cùng tận. Cái nóng quá sứa chịu đựng. Nhưng rồi cuối cùng, váo lúc chiều tối, ngôi nhà bằng gỗ xinh xinh đã rực rỡ một màu trắng loá. Peter lùi ra xa và ngắm nghía thành quả lao động, sau đó cậu mới nhìn xuống bản thân mình. Cái áo thun vốn màu trắng giờ chỉ còn là một mảnh ghẻ đẫm mồ hôi ngả màu nâu trộn xám. Cậu nhìn sang phía Bob rồi phía Justus. Bob trông cũng chẳng khác gì cậu, nhưng Justus mới là kẻ có ngoại hình bị xuống cấp trầm trọng nhất. Mặt cậu chàng đỏ gay đỏ gắt, đẫm mồ hôi, áo thun nhỏ giọt tong tong và cậu hầu như không thể đứng thẳng được nữa. Cô Mathilda Jonas bước về phía ba chàng trai và vui vẻ vỗ tay kêu lên. – Tuyệt quá! Ngôi nhà bây giờ trông mới đẹp làm sao! Cô xin cam đoan với các cháu rằng chắc chắn doanh thu trong mấy thánh tới sẽ tăng. Các cậu rất xứng đáng được trọng thưởng đây! Vào hàng hiên nầy với cô, mọi chuyện được chuẩn bị xong rồi! Justus xoay nhìn bà cô với hai con mắt từ miếng lem nhem mồ hôi và ghét bẩn. – Cô Mathilda! – Sao cơ? – Đây là lần cuối cùng cô thoát khỏi một vụ như thế nầy mà chỉ tốn duy nhất một món bánh anh đào. Cháu kiệt sức thật rồi. Bà cô nhìn cậu, vẻ hối lỗi.- Ý cháu muốn nói, chỉ món bánh anh đào không thôi thì chưa đủ làm phần thưởng? Thám tử trưởng câm nín lắc đầu. – Mà hai bánh anh đào cũng không luôn. – Thôi được, cô nợ cháu một món. Nếu trong tương lai cháu cần đến sự giúp đỡ của cô thì cháu có thể tin chắc vào cô. Hứa chắc chắn thế. – Cháu sẽ ghi nhớ chuyện nầy. Chỉ một lát sau, bộ ba thám tử đã ngồi trong bóng râm của hàng hiên và tham lam nuốt chửng những miến bánh anh đào tuyệt hảo, trong khi những giọt mồ hôi trên cơ thể họ dần khô lại. – Mình nói cho các cậu hay, còn lâu mình mới tham gia lại một vụ như thế nầy, – Bob vừa rên lên thành tiếng vừa đưa tay nhặt những mãnh vụn cuối cùng trên đĩa. – Đừng lo, phải hai năm nữa nhà mới quét sơn lại, – Justus nói. – Mà bấy giờ cô Mathilda đang nợ bọn mình một món. Ai mà biết được chuyện nầy sẽ có ích cho ta thế nào. Có tiếng chuông reo từ phía xa. Peter dỏng tai lên. – Có phải máy điện thoại trong Bộ tham mưu không? – Đúng rối, – Justus. – Cậu nhấc máy đi. – Không có chuyện đó đâu. Cậu là Thám tử trưởng. Justus chần chừ và vật lộn với bản thân một thoáng, nhưng cũng như bao lần trước đó, tính tò mò chiến thắng sự lười biếng. Cậu chàng nhấc mình ra khỏi chiếc ghế vườn. nhảy từ hàng hiên xuống và chạy xuyên qua khoảng sân bụi bặm để ngổn ngang đồ củ, hướng về Bộ tham mưu. Cậu còn về kịp nhấc máy điện thoại. – Justus Jonas của bộ ba Thám tử đây. – A, thế là tôi gặp đúng người rồi! – Một giọng phụ nữ đứng tuổi vui vẻ kêu lên. – Tên tôi là Berrnadette O’Donnell. Tôi muốn nòi chuyện một trong ba các cậu. Justus, cậu là người chỉ huy doanh nghiệp, đúng không? – Đúng như thế. Tôi có thể giúp gì cho cô ạ? Thế nầy nhé, tôi người Malibu Beach và đã nghe kể nhiều về các cậu. Người ta nói rằng chuyên ngành chính của các cậu là những hiện tượng siêu nhiên. Justus ngượng ngùng hắng giọng. – Nó là chuyên ngành có lẽ hơi quá lời, nhưng cô cũng có phần có lý. Bộ ba chúng tôi quả đã giãi quyết được một vài vụ thoạt đầu đã gây ấn tượng như là chuyện ma ám, quỷ hờn. – Tuyệt quá! – Bà O’Donnell vui vẻ kêu lên, – Thế thì các cậu đúng là những người tôi đang tìm gặp! Tôi có một vụ cho các cậu! – Chuyện về ngôi nhà của cô bạn gái Elouise Adams của tôi. – Ngôi nhà đó làm sao ạ? Bernaderre O Donnell cười khẽ. – Ở đó không có ma. – Sao kia? – Tôi biết, nghe có vẻ điên rồ, nhưng trong nhà của Elouise không có ma. Justus bối rối. – Như thế thì … thế thì rất hay. Đúng không? – Đúng, – O Donnell đồng tình. – Như thế không phải chỉ hay không đâu, mà còn là rất tuyệt nữa kia. Vấn đề chỉ là, chúng tôi cần bằng chứng cho chuyện nầy. Các bạn đồng nghiệp! Vào vòi sen ngay! Ta có một cuộc hẹn! – Sao? – Một vụ án mới. Vừa có một nữ thân chủ gọi tới. Mình đã hứa với bà ấy là chúng ta sẽ tới đó trong vòng một tiếng nữa. Bằng những câu văn ngắn gọn, Justus kể cho hai bạn nghe nội dung cú điện thoại. – Một ngôi nhà ma hả? – Peter dằn giọng hỏi. – Ôi trời, chả lẽ không còn chuyện dì khác hay sao? – Đây chính là một chuyện khác. Nó không phải là một ngôi nhà ma. Mình xin thú nhận là mình chưa hiểu hết toàn bộ chuyện nầy, nhưng rồi chúng ta sẽ biết thêm chi tiết. Bây giờ thì phải thay đồ đã, thế nên vào tắm thôi. Các cậu có thể tắm ở đây, ta không còn thời gian nữa đâu. Peter lắc đầu. – Không lần nào mình hết ngạc nhiên, cứ nghe đến một vụ án mới là cậu khỏe khoắn trở lại ngay lập tức. Vì Bob và Peter luôn trữ sẵn vài bộ quần áo sạch trong Bộ tham mưu, nên họ không cần phải quay về nhà. Chỉ nửa tiếng sau, cả bộ ba đã tươi tỉnh, sạch sẽ và khỏe mạnh như vừa được tái sinh. Malibu Beach nằm cách Rocky Beach chỉ vài dặm đường, bộ ba có thể vượt khoảng cách đó dễ dàng bằng xe đạp. Mặt trời đã sa xuống thấp khi họ rẽ vào con đường bờ biển dẫn xuống phía Nam và đạp xe ngang qua những ngôi nhà đầu tiên của thành phố. Malibu là một khu vực giàu có, sang trọng, rất nhiều ngôi sao Hollywood cũng như các doanh nhân giàu có sinh sống nơi đây. Địa chỉ mà O Donnell đã trao cho Thám tử trưởng nằm trong một khu biệt thự yên tĩnh, hơi lùi sâu vào đất liền. Đó là một ngôi nhà trong mộng với những bức tường quét sơn trắng, bao quanh là một khoảng sân vườn đẹp tuyệt vời toả rực một màu đỏ trong ánh hoàng hôn. Trong vườn phải có tới hàng ngàn nụ hoa hồng đỏ như máu đang đua nhau nở rộ. Chúng biến dàn trồng hoa xây bằng bêtông bên cạnh cổng vào thành một con đường hầm rực rỡ, hầu như không có ánh mặt trời xuyên lọt. Những nhành hồng bám cả vào vài bậc thềm dẫn lên ban công như cũng đang muốn nổ bung ra trong vẻ tráng lệ của vô vàn những bông hoa hồng. Quả thật là một toà lâu đài cổ tích. – Sao giống trong chuyện Người đẹp ngủ trong rừng thế, – Bob thốt lên trong vẻ thán phục khi bộ ba dừng xe đạp bên phố. – Đúng thế, chỉ có điều chàng hoàng tử lần nầy là một ông thợ chở đồ gỗ, - Justus trả lời và chỉ vào chiếc xe chở đồ của một hãng vận chuyển đang đứng bên rìa đường. Thùng đựng hàng phía sau đã được dọn dẹp gần xong, chỉ còn lại vài hộp Carton. Hai người đàn ông trong những bộ áo liền quần bẩn thỉu đang bê những chồng hộp cuối cùng và đưa chúng vào nhà. – Chỗ nầy nữa là xong đây, bà O Donnell! – Tuyệt lắm! – Giọng nói mà Justus đã nghe qua điện thoại vang lên phía trong nhà. – Nhớ gửi hoá đơn cho tôi nhé. – Hai nhân viên của hãng vận chuyển trèo lên ô tô và chiếc xe tải lăn bánh. Bộ ba thiếu niên bước vào vườn và đi theo những bậc thềm có hoa hồng bao phủ xung quanh, lên với khuôn cửa đang để mở. Trong căn sảnh trước có một người đàn bà lớn tuổi đang cúi mình xuống bên hộp Carton đựng đò chuyển nhà và lục lọi trong đó. Bà ta mặc quần Jeans và áo thun, mái tóc bạc được buộc bằng một dãi khăn sặc sỡ. Khi nhận ra ba thám tử, bà đứng thẳng dậy và vui vẻ đi về phía họ. – A, các cậu đến đây rồi! Nhanh thật đấy. Tôi là Bernadette O Donnell. – Bà bắt tay từng người một . – Tôi là Justus Jonas. Còn đây là hai anh bạn đồng nghiệp Bob Andrews và Peter Shaw. – Rất hân hạnh! Xin lỗi các cậu vì cảnh bừa bộn thế nầy, chúng tôi vừa mới dọn tới đây. – Không có vấn đề gì, – Peter rộng lượng khẳng định. – Nhưng phòng tiếp khách thì được bày biện xong rồi. – Bà O Donnell xoay đầu về và kêu lên: – Cecilia! Các thám tử đến rồi đây! – Bà mở một khuôn cửa hai cánh ở phía trái của sảnh trước và ra hiệu cho ba thám tử đi theo. Phòng salon tiếp khách được trang trí bằng những tấm thảm trải nền rất dầy và những món đồ cổ quý giá. Phòng có cửa sổ hướng ra vườn. Trên tường treo những bức tranh sơn dầu được lồng khung vàng, một chiếc ghế sofa uốn lượn cầu kỳ bọc nhung đỏ đứng cạnh lò sưởi, tiếp đó là một bàn uống trà làm bằng đồng thau. Thứ duy nhất khuấy đảo không khí cổ tích nầy là một dàn nhạc khổng lồ gây ấn tượng hết sức đắt tiền, được kê sát bên tường, óng ánh trong một màu bạc dịu dàng. Dù chủ nhân của dàn máy móc hiện đại nầy có là ai chăng nữa, người đó chắc chắn phải rất say mê âm nhạc. Trên chiếc ghế sofa là một người phụ nữ cùng tuổi với bà O Donnell. Bà ta mặc toàn một màu đen và đeo cặp kính không tròng. Mái tóc được chải đơn giản ra sau gáy khiến chủ nhân của nó gây ấn tượng như một bà hiệu trưởng nghiêm nghị, khắt khe. Người đà bà nhìn về phía bộ ba bằng vẻ mặt tuyệt nhiên bình thản. Bà O Donnell giới thiệu ba thám tử. – Còn đây là bạn gái Cecilia Jones của tôi. Tiến sĩ Cecilia Jones. Mời các cậu ngồi! Justus, Bob và Peter ngồi xuống, bà Bernadette O Donnell rót trà cho họ. – Thưa cô O Donnell, tôi xin thú nhận rằng ban nãy khi nói chuyện qua điện thoại, tôi chưa hiểu hết mọi việc. Có lẽ chúng ta nên bắt đầu lại từ đầu. Câu chuyện nầy xoay quanh vụ gì vậy? Phải là một ngôi nhà có ma? – Phải. mà cũng không phải. Nó xoay quanh ngôi nhà nầy đây. Nhưng tôi không tin là nó có ma. – Nhưng cô thì tin, – Justus tiên đoán và xoay sang với bà Cecilia Jones. – Không. Tôi lá bác sĩ. Là một nữ khoa học gia. Tôi hoàn toàn chẳng lưu tâm đến những chuyện ngớ ngẩn như vậy. – Vângthì, vậy thì tôi không hiểu được chuyện nầy. – Người tin vào mà là cô bạn gái Elouise của chúng tôi, – bà O Donnell giải thích. – Cô ấy mới là chủ nhân thực sự của ngôi nhà nầy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả là tôi bắt đầu từ đầu: trước đây ba tháng, ngôi nhà nầy còn là biệt thự của Dora Mastratonio … – Dora Mastratonio? – Bob buột miệng kêu lên. – Phải ý cô muốn nói đến nữ ca sĩ Ô-pê-ra nổi danh? – Bà O Donnell mỉm cười. – Chính là cô ấy đây. Tôi rất vui là những người trẻ trung như các cậu cũng còn biết đến tên cô ấy. – Vâng thì, tôi cũng không hẳn là người mê Ô-pê-ra, – Bob thú nhận, – nhưng cô Dora Mastratonio là một ngôi sao thực thụ! Đã là thì đúng hơn. Cô ấy vừa mới qua đời. Người đàn bà buồn rầu gật đầu. – Dora, Elouise, Cecilia và tôi là bạn thân với nhau suốt nhiều thập kỷ. Trước đây chúng tôi đã thề với nhau: Nếu chúng tôi sống lâu hơn các đấng ông chồng, cả bốn chúng tôi sẽ cùng chuyển đến sống chung dưới một mái nhà. Thế đấy, bản thân tôi chưa bao giờ lấy chồng, Elouise cũng không. Dora thì đã thành goá phụ từ cách đây 15 năm. Và anh Gilbert chồng của Cecilia mới qua đời cách đây bốn tháng. Tiến sĩ jones hạ ánh mắt xuống. giờ thì Justux hiểu tại sao bà ta lại mặc toàn một màu đen và có nét mặt thẫn thờ như thế. – Tôi rất tiếc, – cậu ngượng ngùng nói. Tiến sĩ jones không phản ứng. – Một tuần sau đó, cô bạn Dora tội nghiệp cũng qua đời, – O Donnell nói tiếp, giọng nói ban nãy còn chắc chắn và mạnh khỏe bây giờ thành mỏng manh, ngập ngừng. Người đàn bà rút một chiếc khăn mùi soa để chấm vài giọt lệ vừa trào ra từ khóe miếng. – Cô ấy đã qua đời trong một tai nạn. Tội nghiệp quá! Thế mà bốn chúng tôi cứ tưởng tượng rồi cảnh nầy sẽ đẹp biết bao. Cả bộ bốn ở đây, sống chung dưới mái nhà nầy. Lẽ ra nó phải tuyệt biết bao nhiêu! Cha, bây giờ chúng tôi chỉ còn ba đứa. Justus khẽ liếc sang phía Peter và Bob, không ai biết ai cần phải nói câu gì. Một khoảng im lặng nặng nề. Mãi rồi bà O Donnell ngồi thẳng dậy, đưa tay vuốt tóc và khẽ mỉm cười. – Nhưng cuộc đời ngắn lắm, không nên phí thời gian cho chuyện buồn rầu vô ích, đúng không nào? Elouise đã được thừa kế ngôi nhà nầy từ Dora, cô ấy thân với Dora nhất. Và thế là chúng tôi quyết định vẫn cứ thực hiện kế hoạch của mình. Giờ chúng tôi chỉ còn có ba đứa, nhưng qua ngôi nhà nầy và qua khoảng vườn mà Dora ngày sống rất yêu thích, cô ấy sẽ luôn luôn hiện diện bên chúng tôi. – Vấn đề chỉ là, – Giờ thì tiến sĩ Jones lên tiếng, – Elouise không muốn thế. – Cô ấy không muốn gì ạ? – Bob hỏi. – Không muốn chuyển đến đây. Cô ấy được thừa kế ngôi nhà, và là chủ nhân hợp pháp của nó, nhưng cô ấy không muốn sống ở đây. – Vì cô ấy tin rằng trong nhà nầy có ma, – Justus phỏng đoán. – Đúng thế, – tiến sĩ Jones khẳng định. – Và dĩ nhiên đó là chuyển hoàn toàn ngu ngốc. – Dù không biết hết mọi chi tiết, tôi cũng phải công nhận là có lý. – Em thấy chưa, Cecilia, chị đã nói với em từ đầu mà. Bộ ba đúng là những người chúng ta đang cần đến. Các cậu không tin vào chuyện ma qủi, đúng không nào? Justus lắc đầu. – Chúng tôi đã nhiều lần gặp phải những sự kiện bí hiểm, những sự kiện thoạt nhìn tưởng như có nguồn gốc siêu nhiên. Nhưng sau quá trình điều tra, tất cả lộ rõ chỉ là trò gian dối. – Tuyệt lắm! – Bà O Donnell hồ hởi. – Thế thì tôi hy vọng rằng các cậu sẽ nhận vụ nầy? Justus nhìn sang phía Bob và Peter, hai cậu bạn gật đầu đồng ý. – Rất sẵn lòng, thưa cô. Có tiếng bước chân vang lên ở ngoài hành lang. Rồi một giọng nói cao mảnh và ngập ngừng cất lên: – Ha-lô! – Ô, cô ấy đấy! – Bà O Donnell thầm thì. – Cecilia, em nhớ cư xử sao cho dịu dàng. Còn ba cậu, tôi mong chờ các cậu hỗ trợ tôi! Bộ ba ngạc nhiên nhìn nhau. Họ hoàn toàn không hiểu bà Bernadette đứng vừa nói tới chuyện gì. Nhưng không một ai còn cơ hội để hỏi nữa, vì cánh cửa vào phòng salon lúc đó đã mở ra và một người đàn bà béo tròn với mái tóc nhuộm màu hạt dẻ bước vào. Người đàn bà nầy cũng chừng tuổi với bà O Donnell và tiến sĩ Jones, mặc một chiếc áo dài vải mềm và rộng, mang màu sắc ấm áp của mùa thu, phía trên đó là một sợi dây chuyền rất to và nặng làm bằng những hạt gỗ sặc sỡ. Justus ngay lập tức nhớ tới bà thầy lang sống ở Rocky Beach, người mà cô Mathilda đã có lần tới gặp đ