ạm Đài Minh Nguyệt có thể nói là tuyệt đỉnh, hầu như không trượt phát nào, mỗi lần nhả đạn là hạ gục một tên, nhưng bọn quân phiệt đông như ong, xem chừng không thể cầm cự được lâu. Mặc dù Đồ Hắc Hổ đã lệnh cho quân lính không được ham bắn làm hỏng tượng phật nhưng bọn chúng ngày càng hăng máu, trong thế một mất một còn thì đâu còn tâm trí để ý tới lệnh của cấp trên nữa, xung quanh tiếng súng nổ rầm rầm, đạn bay như trấu, thiếu mỗi nước ném thẳng lựu đạn vào trong điện. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, thì ông chủ Triệu và Nhị Bảo đã di chuyển được một nửa bức tượng Phật, cùng lúc đó một tiếng động lớn vang lên, đế đỡ hình hoa sen của bức tượng Phật nghìn tay nghìn mắt bỗng mở ra một cánh cửa. Dương Phương nghĩ chẳng phải bức tượng này trấn áp thủy quái sông Hoàng Hà sao? Mới nghĩ vậy thì thấy ông chủ Triệu gọi mọi người đi vào bên trong, lúc đó cũng chẳng kịp thời hỏi lại, chỉ vừa đánh vừa rút, chui vào đường hầm bên dưới bức tượng, bên trong như một hang động, có một quả cầu đá trên một chiếc đòn bẩy, sau khi khởi động thì quả cầu đá lăn xuống bịt kín lối vào. Quân đội của Đồ Hắc Hổ bị chắn ở bên ngoài, người bên trong cũng đừng mong có lối ra. Sau khi thoát chết, Dương Phương định thần lại, bật đèn pin lên xem xét, phát hiện trong động còn có một đường hầm bằng đá, đường hầm phẳng rộng, chiều ngang khoảng năm, sáu người đứng sát nhau, không rõ đường hầm đó thông đi đâu, chỉ thấy đứng trong đường hầm nghe gió thổi lạnh buốt, chứng tỏ bên trong rất rộng và sâu, trên tường khắc chi chít kinh văn pháp chú, anh ta nhận ra đây là “Kim cương phục ma chú”, nếu không có yêu ma quỷ quái thì không tự dưng lại khắc kinh này trên tường, trong lòng thấy lạ đang định hỏi ông chủ Triệu đây là nơi nào? Vừa định lên tiếng thì nghe thấy ông chủ Triệu kêu lên một tiếng “Ối!”. Hóa ra lúc ở Phật điện, ông chủ Triệu đã bị trúng đạn ở bụng, trong lúc tình hình căng thẳng ông cũng không để ý tới, đến khi rút được vào trong đường hầm thì không trụ được vì mất quá nhiều máu. Ba người vội vàng dìu ông ngồi xuống để xem xét vết thương, ông chủ Triệu nắm chặt tay Dương Phương như muốn nói điều gì đó, lời nói đã tới cửa miệng nhưng chưa kịp thốt lên thì đã tắt thở ngay sau đó. Ông chủ Triệu chết quá đột ngột, Dương Phương cảm thấy đau lòng khôn xiết, sinh tử vốn vô thường như vậy, vừa quen nhau chưa được bao lâu, không ngờ đã âm dương cách trở. Nhị Bảo ôm lấy thi thể ông chủ Triệu, người đần ra như kẻ ngốc, không ngừng khóc gọi chủ nhân. Đạm Đài Minh Nguyệt từ nhỏ đã nương tựa vào ông chủ Triệu, tình như cha con, giờ đã khóc ngất đi. Dương Phương vội đỡ lấy cô, tới khi tỉnh lại liền chạy ra ôm lấy thi thể ông chủ Triệu khóc lóc thảm thiết. Lúc này chỉ nghe thấy tiếng nổ đinh tai, vách đá cũng bị chấn động rung lên bần bật. 3 Ba người hiểu ra bọn quân phiệt đang dùng thuốc nổ để phá cửa hầm, Dương Phương chửi thầm: “Đồ Hắc Hổ khốn nạn! Cắn được người rồi là không chịu nhả ra”. Lần này tuy chưa phá được cửa hầm, nhưng nếu cho nổ lần nữa thì cho dù cả ba người không bị nổ tan tành mây khói cũng bị bọn lính đông như ong tràn xuống bắn chết. Dương Phương biết không thể ở lại chốn này lâu, phải thoát ra theo lối đường hầm, người chết rồi không thể sống lại, có khóc lóc cũng vô dụng. Vì không muốn thi thể ông chủ Triệu rơi vào tay quân phiệt, chết rồi mà còn phải chịu nhục, anh liền đổ dầu lên thi thể ông rồi đốt cùng chiếc đầu của Mạnh Bôn. Đạm Đài Minh Nguyệt tuy rất đau lòng nhưng cũng hiểu đại cục, biết được đâu là việc quan trọng, cô gạt nước mắt, nhìn lần cuối thi thể đang bị ngọn lửa thiêu đốt, kéo Nhị Bảo đang khóc ngất ra, rồi theo Dương Phương tiến vào trong đường hầm. Từ đời bố của Triệu Nhị Bảo đã hầu hạ cho nhà họ Triệu, từ trước đến nay ông chủ nói gì thì cậu ta làm cái đó, bản thân mình chưa làm chủ điều gì, giờ đây gặp đại nạn này, trong lòng hoang mang vô cùng, chỉ còn cách hỏi Đạm Đài Minh Nguyệt: “Đại tiểu thư, ông chủ mất rồi, từ giờ chúng ta phải làm sao đây?” Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Đương nhiên phải tìm cách ra khỏi đây rồi tìm cơ hội giết Đồ Hắc Hổ để trả thù.” Dương Phương nói: “Đúng thế, còn sống thì làm gì cũng được, một khi đã chết thì mọi việc cũng trở nên vô nghĩa, không cần phải nghĩ nhiều như vậy, tránh cho qua hôm nay đã rồi tính, mọi người có biết con đường hầm này thông tới đâu không?” Những chuyện ông chủ Triệu biết thì Đạm Đài Minh Nguyệt đều biết, cô kể lại cho Dương Phương. Từ cổ tới nay, nạn lũ trên sông Hoàng Hà rất khó trị, mỗi năm có lụt đều nhấn chìm không ít người dân. Thời Bắc Tống, ngôi chùa Đại Hộ Quốc đã được dựng lên bên bờ sông để trấn hà an dân. Bên ngoài thì như vậy, nhưng thực chất là để trấn yêu. Trước đây có một truyền thuyết rất đáng sợ, kể rằng thành Khai Phong bên bờ sông Hoàng Hà là thành trì trên thành trì, ngày nay nhìn từ trên xuống ít nhất cũng có sáu bảy thành trì, toàn do lụt sông Hoàng Hà, đất phù sa bồi đắp khiến nước sông ngày một dâng cao, mỗi lần có lụt, nước sông và phù sa nuốt trọn thành trì, mấy nghìn năm trôi qua, thay đổi nhiều triều đại, khiến thành trì sau chồng lên thành trì trước tạo thành một kỳ quan hiếm gặp. Tương truyền, thành Khai Phong là “Tam sơn bất hiển, ngũ môn bất chiếu”, tam sơn bất hiển là ý nói ngoài thành Khai Phong có địa danh đều có chữ sơn nhưng những vùng đó không có ngọn núi nào, chỉ là đồng bằng, thực ra ngọn núi đó dần bị phù sa sông Hoàng Hà bồi lấp, từ đó có thể thấy lớp đất do phù sa bồi lấp sâu tới mức nào, càng xuống sâu thì niên đại của thành trì phía dưới càng lâu. Thành trì lâu đời nhất có thể tính được là Đại Lương thành của thời Xuân Thu Chiến Quốc, sớm hơn nữa chưa hẳn là không có mà chỉ do không có tài liệu của sử sách để truy cứu. Đa phần là thành trì trống bị phù sa vùi lấp nhưng cũng có vài lần do gặp đại nạn khiến toàn dân trong thành bị chôn sống. Anh thử nghĩ xem, cả thành trì bị chôn vùi thì kiểu gì cũng có khe hở nhưng không thể nào có người còn sống được. Vậy mà có lúc động đất, thì cổ nhân từ hàng nghìn năm trước từ dưới thành trì trong lòng đất bò lên qua những vết nứt trên mặt đất, những người này tỏa ra mùi hôi thối khó chịu, mặt xanh nanh dài, đuổi bắt người dân để ăn thịt, nhưng khi thấy mặt trời thì toàn thân đơ cứng không thể cử động, nói vậy rất giống cương thi, nhưng vẫn có thịt có máu, vẫn thở bình thường, không ai biết đó là yêu quái gì. Vì vậy, ngôi chùa Đại Hộ Quốc này mới thờ tượng phật nghìn tay nghìn mắt, bức tượng khổng lồ này trấn ngay ở cửa động, chính là chỗ năm xưa những yêu quái xuất hiện, đó vốn là một dòng chảy ngầm dưới lòng đất, sau khi nước rút thì thành một đường hầm, chắc là thông tới động cát bên ngoài thành Khai Phong, theo sơ đồ dòng sông thì đó cũng là mắt sông. Dương Phương nghe chuyện này thấy có điểm vô lý, năm xưa người dân đều biết ở đây có yêu quái, tại sao không lấp luôn cửa động mà phải tạc tượng lấp đường hầm làm gì? 4 Đạm Đài Minh Nguyệt nói, quân vương nghe lời quần thần nịnh nọt, nói rằng thứ trồi lên từ dưới sông Hoàng Hà không phải là cương thi mà là thần tiên trong lốt thân xác phàm trần, tu luyện nghìn năm đã đắc đạo trường sinh bất lão, đạo giáo đều chú trọng việc sau khi chết hóa thành lông hồng bay về trời, thân xác phàm trần càng đáng quý. Những cương thi này chắc do bị chôn vùi dưới đất nhưng không chết, đã ăn thịt Tê dưới mắt sông Hoàng Hà, Tê chính là một rồng già sống dưới sông Hoàng Hà, sau khi chết thì trên thi thể mọc lên những cây nấm linh chi bằng thịt, ăn thứ đó có thể trường sinh bất lão, chính vì vậy những người bị chôn dưới lòng đất mới có thể sống sót tới này nay, chỉ có thể họ bị những oan hồn đeo bám. Quân vương là hiện minh của thánh minh thiên tử, nên cần độ hóa cho những cô hồn dã quỷ đó. Vậy nên quân vương mới tắm rửa sạch sẽ, thắp hương khấn vái trời đất, chọn ngày lành phái hai người đạo sỹ tới bờ sông tìm thần tiên để xin phép thường sinh bất lão. Cũng có người không tin thân xác phàm trần có thể thành thánh, nhưng cho ràng nơi đây có kỳ chân dị bảo, thành trì quý giá nên mới bị chôn vùi toàn diện như vậy, đồ vật trong thành hẳn chưa có ai động tới, một con lạc đà chết đói còn được khối thịt huống hồ là cả thành trì, có người tới để kiếm của phát tài, có người tới để tìm thuật giúp thân xác phàm trần có thể thành thánh nhân, nên bỗng chốc đâu đâu cũng bàn luận vấn đề này nhưng không ai dám đi tìm hiểu sự tình, sau cùng họ chọn một giải pháp trung gian, đầu tiên tới bên bờ sông tạc một bức tượng nghìn tay nghìn mắt khổng lồ, tạm thời bịt kín miệng hố, nhưng để lại một con đường hầm, mỗi năm đều mời cao tăng tới độ hóa những ác quỷ đó. Nhưng chưa đợi quân vương chọn người đi tìm phép tiên thì quân lính nhà Kim đã đánh tới tiêu diệt Bắc Tống, sau đó Hoàng Hà đổi dòng, lũ lụt kéo theo lượng phù sa bùn đất lớn đã nhấn chìm cả ngôi chùa, cùng với sự thay đổi triều đại, nơi đây dần bị con người lãng quên. Đạm Đài Minh Nguyệt còn kể với Dương Phương, ông chủ Triệu nói dã tâm của Đồ Hắc Hổ rất lớn, phần là hắn muốn đào thành cổ dưới phủ Khai Phong, một phần hắn muốn tìm thần vật đã khiến cho người xưa có thể trường sinh bất tử. Ông chủ Triệu tuy biết chuyện này nhưng ông không mấy tin vào những truyền thuyết ma quỷ, chỉ muốn lấy những tượng phật và báu vật của chùa lên tránh rơi vào tay quân phiệt. Trong lúc đường cùng mới vô tình phát hiện ra đúng là có đường hầm ngầm phía dưới bức tượng Phật khổng lồ. Điều này cho thấy đường hầm này thông ra mắt sông, còn có yêu quái hay không thì không ai có thể phán đoán được. Dương Phương hiểu được ngọn ngành sự việc, trong lòng nghĩ: “Tình thế này đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, cổ nhân bị chôn vùi trong bùn đất mà không chết sao? Mắt sông Hoàng Hà có yêu quái gì?” vừa nghĩ tới đó thì phía sau lưng vọng tới tiếng mìn nổ, phía xa lốm đốm ánh lên những tia lửa, Đồ Hắc Hổ đã cho nổ tung bệ đá, đội quân của hắn lập tức xông xuống phía dưới. Đồ Hắc Hổ tuy trong quân đội nhưng thường ngày vốn hay mê tín, bí mật dời mộ tổ về chôn ở Lôi Công Lĩnh, cho rằng đã giấu được trời đất, không ngờ lại bị đổ đấu, tức đến thổ huyết, may đã tìm ra đường hầm thông xuống thành trì dưới đất, hắn ta nghe nói bên dưới có thần vật, huống hồ mấy tên đào trộm mộ tổ nhà hắn cũng trốn xuống đó, không băm vằm được bọn nó thì khó mà làm tan được nỗi hận trong lòng. Trước đó, hắn sai Biên Hải Long làm thuyết khách là để bắt sống moi tin đứa đã đào trộm mộ, còn truyền thuyết tượng phật dùng để trấn áp yêu quái rồi bên dưới có đường hầm ngầm thì hắn rõ như lòng bàn tay. Giờ hắn đã cho nổ tung cửa hầm, đích thân dẫn quân xông xuống, hơn bốn trăm quân lính đi theo đều là những tay tinh nhuệ, chỉ cần đánh hơi thấy nơi nào có tiền có khói bếp thì thậm chí không cần mạng sống để liều mình, tên nào cũng có một khẩu súng ngắn, một khẩu súng trường, sau lưng còn một thanh đao, thắp mấy trăm bó đuốc, xếp hàng đi vào đường hầm. Đồ Hắc Hổ tay cầm súng, đi giữa chỉ huy, vừa đi vừa giơ súng lên hạ lệnh: “Các quân sỹ nghe đây, hãy theo ta đi lấy báu vật, ai đi sẽ được thăng quan trọng thưởng, ai dám quay ra thì ta sẽ cho ăn đạn ngay lập tức, bọn trộm thoát vào đường hầm gồm bốn tên, giờ đã chết một tên, còn lại ba tên, nếu bắt được một tên còn sống thì ta sẽ thưởng hai mươi thỏi bạc, chết thì thưởng mười thỏi.” Quân sỹ đồng thanh trả lời, ỷ vào thế đông lực mjanh không coi ai ra gì, đều muốn bắt sống để lĩnh thưởng, mấy hàng lính đi đầu thu súng lại, rút đao ra, cầm đuốc tiến lên phía trước. Dương Phương nhìn thấy thế lực quân phiệt hết sức hung hãn đang đuổi theo rất gấp, vội tắt đèn pin, may mà Dương Phương có đôi mắt tinh tường, đi trong bóng tối vẫn nhìn thấy rõ ràng, anh nói Đạm Đài Minh Nguyệt và Nhị Bảo theo sát phía sau, súng đeo cả sau lưng, nắm lấy tay nhau đi trong bóng tối. Trong đường hầm rộng rãi bằng phẳng, tuy khoảng cách với bọn quân phiệt còn xa nhưng vẫn thấy được ánh lửa sáng lên phía sau lưng. Nhị Bảo thấy quân binh đuổi theo sát phía sau thì hồn vía lên mây, run rẩy nói: “Đại tiểu thư, sớm muộn gì cũng bị bọn Đồ Hắc Hổ đuổi kịp thôi, mình phải làm gì bây giờ?” Đạm Đài Minh Nguyệt cũng bất giác toát mồ hôi lạnh, nhưng cô là người có chủ kiến, liền nói với Nhị Bảo: “Chuyện đã đến nước này chỉ còn cách tùy cơ ứng biến thôi.” Dương Phương không khỏi khâm phục Đạm Đài Minh Nguyệt gan dạ, nghĩ tới tình cảnh lúc này của mọi người, đúng là mối nguy hiểm khủng khiếp chưa từng gặp bao giờ, đến như anh cũng chỉ có thể nghĩ “tùy cơ ứng biến”. Nghe thấy hiệu lệnh thét lên phía sau lưng, hình như bọn quân phiệt đã chui xuống đường hầm, nỗi tức giận trào dâng, định quay lại một phen sống mái với chúng, nhưng nghĩ lại lời dặn dò của Thôi lão đạo đành phải nhẫn nhục, tiếp tục mò mẫm trong bóng tối. Đi thêm một đoạn thì tới nhánh dòng sông đã cạn nước, địa hình chật hẹp hơn, thực ra nơi đây trước là dòng chảy ngầm của con sông, đường hầm uốn khúc quanh co, lúc rộng lúc hẹp, dưới nền toàn bùn đất và cát, mỗi bước chân đi đều bị lún sâu rất khó rút chân lên. Ba người bỏ xa đội quân đang đuổi theo phía sau một đoạn, tạm thời không nhìn thấy ánh lửa nên bật đèn pin lên, họ lại tiếp tục di chuyển trong đường hầm ngoằn ngoèo. Bỗng phía trước xuất hiện một bức tường thành màu vàng đất chắn ngay trước mặt, phía trên một màu tối đen, nghe ngóng phía bên kia không thấy động tĩnh gì. Nhóm Dương Phương đi men theo bức tường tới phía cổng thành, thấy bố cục đường xá bên trong vẫn nguyên vẹn, vừa sâu vừa hẹp, giống như hào giao thông quân sự, nhưng nhà cửa đều bị bùn cát phủ lấp, chỉ nhìn thấy hìnht hù cao thấp mà thôi, không thể phân biệt được là thuộc triều đại nào. Khai Phong là sông trên trời mà thành trì dưới lòng đất, sông Hoàng Hà chảy xiết nên phù sa bồi đắp ngày càng nhiều, sông ngày càng cao, thậm chí cao hơn thành Khai Phong, vậy mới gọi sông trên trời, thành lũy cổ bên dưới thành Khai Phong chính là thành trì ngầm trong lòng đất. Lũ lụt sông Hoàng Hà là đại nạn từ xưa tới nay, đất bồi của sông hết lớp này tới lớp khác khiến mặt đất ngày càng cao hơn, nhưng bên trong vẫn có những khe hở, năm này qua năm khác thành những đụn cát lớn, ngôi thành cổ này năm xưa rơi vào động cát nên tổng thể vẫn nguyên vẹn hơn những thành trì cổ bên dưới thành Khai Phong, nhưng mỗi lần lũ lụt nước dâng lên, những động cát đó cũng chìm dưới nước, ngày nay chỉ còn lại những ngôi nhà xây bằng gạch kiên cố, những kiến trúc khác chỉ còn dấu tích nền đất hoặc tường đất. Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Xem ra nơi này nhiều lần bị nhấn chìm trong nước, năm xưa khi thành trì bị lún vào động cát, nếu may mắn thoát chết chắc cũng không sống được bao lâu, nên ngôi thành trì này chẳng có châu báu ngọc ngà cũng chẳng còn ai sống sót, chỉ là một thành phố chết.” 5 Nhị Bảo thở hổn hển: “Không chạy được nữa rồi, có thể vào trong thành trốn tạm không…” Dương Phương nói: “Dù sao cũng không chạy ra được, chúng ta vào trong thành thử làm hoàng thượng xem sao.” Nhị Bảo là một người lạc quan, liền nói: “Lục ca, nếu huynh là hoàng thượng thì đại tiểu thư làm hoàng hậu, tôi làm tướng quân.” Dương Phương nói: “Huynh đệ, ngữ cậu chưa làm tướng quân được đâu, cùng lắm chỉ làm thái giám.” Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Hai người còn có thời gian mơ mộng nữa à, quân phiệt sắp đuổi tới nơi rồi.” Mới đứng nói chuyện một lúc mà quân của Đồ Hắc Hổ đã tới ngoài thành. Ba người không dám dừng lại, vội vã vào bên trong. Bọn binh lính nhìn thấy ba người từ xa như nhìn thấy sáu thỏi vàng, chẳng ai dám nổ súng, ai cũng tranh lên trước để đuổi theo, tiếng la hét chửi bới ầm ĩ vang lên phía sau. Nhóm Dương Phương thoát vào trong thành, để lại vết chân phía sau lưng, nhưng vì bọn Đồ Hắc Hổ bám riết phía sau, ba người lại quá mệt mỏi, chẳng kịp xóa dấu vết, cứ thế chạy thẳng đến cổng thành phía bên kia, phía trước mặt đất ngày một lún hơn, khắp nơi đều là nước, mặt nước mênh mông, không còn đường nào để chạy thoát nữa. Đạm Đài Minh Nguyệt hạ khẩu súng săn trên lưng xuống cầm sẵn trên tay, nấp sau một bức tường, nếu nhân lúc nhộn nhạo mà bắn trúng Đồ Hắc Hổ thì tốt, nếu không thì nhảy xuống sông tự tử, thà chết chứ không để rơi vào tay quân phiệt. Dương Phương nói: “Trong đám lộn nhộn kia khó mà phân biệt được mục tiêu, nếu một phát không bắn trúng Đồ Hắc Hổ, tuyệt đối không còn cơ hội thứ hai, hay là tôi nấp sau cổng thành, cho chúng một điều bất ngờ, cô và Nhị bảo leo lên phía trên thành, chờ thời cơ tiếp ứng.” Đạm Đài Minh Nguyệt không biết Dương Phương làm thế nào để nấp tại cổng thành mà không bị phát hiện, nhưng bọn quân phiệt đã đuổi tới nơi, đành cùng Nhị bảo tìm chỗ có thể trèo để leo lên đỉnh thành. Dương Phương biết lần này chết chắc mà không còn cơ hội sống, nhưng nếu không kéo theo được Đồ Hắc Hổ thì chết cũng không nhắm được mắt. Anh ta tắt đèn dầu, nấp vào chân tường, Dương Phương đứng phía bên ngoài, bọn quân phiệt đuổi từ phía sau tới, hầu hết đều đã vào trong thành, hai bên cách nhau chỉ một cái cổng thành. Một tên lính muốn lập công đầu, chạy lên rất nhanh, một tay giơ cao ngọn đuốc, một tay cầm súng xông vào cổng thành, Dương Phương nghe thấy tiếng bước chân đã tới gần, rút roi ra nhằm trúng đầu tên lính quất tới, tên lính này đã dày dạn trận mạc, cũng kịp giơ khẩu súng lên đỡ nhát roi của Dương Phương quất tới, coi như phản ứng nhanh, khổ nỗi lực đánh của Dương Phương quá mạnh, chiếc roi lại nặng, khẩu súng bị đánh gãy làm đôi, đầu cũng nát bét, đổ gục xuống đám bùn đất mà không kịp kêu lên một tiếng. Dương Phương đạp thi thể tên lính sang một bên, nhặt lấy bó đuốc vứt xuống nước tắt ngóm, trong thành cổ nếu không có đuốc đốt sáng thì không nhìn thấy gì, bọn lính truy đuổi phía sau không nhìn rõ tình hình phía trước, thấy có ánh lửa vẫn lay động phía trước thì cho rằng còn phải tiếp tục tiến lên, ai cũng mong lập công đầu, ra sức chạy, chỉ cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Dương Phương từ chân tường thành di chuyển vào bên trong cổng thành, hít một hơi thật sâu, lấy hết sức bình sinh nhảy lên bám vào đỉnh cổng thành như một con thằn lằn. Bọn quân phiệt đuổi tới, rầm rộ chạy qua cổng thành ngay phía dưới Dương Phương, chẳng ai nghĩ là có người trốn ngay phía trên đỉnh đầu mình, khoảng hơn năm mươi tên chạy qua, Đồ Hắc Hổ tiến tới giữa đám quân lính tiền hô hậu ủng. Hắn vào thành, tận mắt nhìn thấy không có thần tiên, cũng chẳng có núi vàng núi bạc thì thất vọng vô cùng, phía trước chẳng còn đường tiến, nên liền lệnh cho quân lính phân chia nhau đi lục soát, không được để tên trộm nào chạy thoát, mấy tên phó tướng bên cạnh hắn cũng lớn tiếng hò hét: “Mấy tên trộm tép riu này dám vuốt râu hùm, dám đào trộm mộ tổ nhà thống đốc, cũng không nghĩ xem chúng nó có mấy cái đầu, phải bắt sống chúng lột da ép mỡ chúng để thắp đèn trời.” Dương Phương ở phía trên nghe thấy mồn một, đúng là cơ hội ngàn năm có một, nếu lúc này nhảy xuống, anh chắc mười mươi có thể đánh vỡ đầu Đồ Hắc Hổ, nhưng quân lính xung quanh hắn quá đông, thằng nào cũng sát khí đằng đằng, gương súng đầy đủ. Anh có thể giết được Đồ Hắc Hổ nhưng khó mà thoát thân, không bị đạn lạc bắn chết thì cũng bị rừng đao chém chết. Nhưng cơ hội chỉ đến trong chớp mắt, không có thì giờ để nghĩ ngợi nhiều, Dương Phương từ trên thành phi xuống như chim bay, lựa tư thế tốt nhất, nhắm thẳng đầu Đồ Hắc Hổ quất tới. Dương Phương dồn hết mười hai phần công lực vào chiếc roi, dồn hết kỹ thuật mà mình đã từng luyện được vào lần xuất chiêu này, trong lòng nghĩ: “Đồ Hắc Hổ đầu ngươi có cứng mấy đi chăng nữa cũng không thể cứng hơn cương thi ở Lạc Dương mình đồng da sắt được.” 6 Lần này bị tấn công bất ngờ, Đồ Hắc Hổ bản lĩnh đến mấy cũng không thể ngờ Dương Phương lại treo mình trên nóc cổng thành, nhưng vì trong thành cổ khắp nơi toàn là bùn nước nên trước khi Dương Phương ra tay đã làm rơi một ít bùn đất trúng ngay đầu của Đồ Hắc Hổ, với bản lĩnh nhạy bén, hắn biết ngay có điều bất thường nên khi chiếc roi của Dương Phương quất tới hắn đã kịp né tránh, chiếc roi đồng xoẹt qua người hắn, sém chút nữa đầu đã lìa khỏi cổ, lực roi quấy ra mạnh đến nỗi tuy không đánh trúng người nhưng tạo ra luồng gió quét qua mặt Đồ Hắc Hổ đau rát, khiến hắn vừa thất kinh vừa phẫn nộ, hét to: “Tên trộm to gan kia”, rồi rút súng ra nhằm thẳng Dương Phương bóp cò. Dương Phương vốn đinh ninh sẽ đánh trúng đầu Đồ Hắc Hổ, không ngờ hắn phản ứng quá nhanh, đã tránh được trong gang tấc. Trong lúc tiếp đất đã nhìn thấy Đồ H