sẽ bị nghi ngờ, không phải kẻ trộm thì cũng là kẻ cướp, có khả năng gây ra nguy hiểm cho người dân, họ sẽ sinh ra đề phòng, đi đâu cũng bị theo dõi, không có cơ hội ra tay. Vì vậy, Dương Phương và Mạnh Bôn hóa trang thành thợ dán giấy, Dương Phương thời thiếu niên có học qua nghề này nên lúc ra bên ngoài có việc vẫn thường hóa trang như vậy, thêm vào đó tay nghề cao, giỏi ăn nói, tới đâu cũng không khiến người ta nghi ngờ, nơi hẻo lánh mấy cũng đi được. Hai người họ vừa đói vừa khát, ngày đi đêm nghỉ không dừng một ngày nào. Tới chân núi Lôi Công, chỉ thấy núi cao sừng sững, rừng cây rậm rạp xanh mướt, nhìn xa xa, núi tiếp núi như một tấm bình phong, chính giữa có một khe núi rất hẹp, đúng như lời Thôi lão đạo nói, đó là lối đi quá hiểm trở chỉ có chim và mây là bay qua được. Nhìn khe núi đó giống như bị sét đánh tách làm đôi, chắc vì thế mà nơi đây mới gọi là Lôi Công Lĩnh, vết nứt từ trên xuống dưới, hình thế này chính là hạ lĩnh xà, mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ chắc nằm bên dưới chỗ đầu rắn, phía trước có núi, bên cạnh có sông, còn có một thôn làng khá lớn. Hai người vào tới đầu thôn thì được biết đây là thôn Thảo Lư nghĩa là lều cỏ. Núi Vương Ốc từ cổ tới nay là nơi đạo giáo đắc đạo thành tiên, nên có rất nhiều Thần cung Đạo quán, thời Hán đã từng có một vị tiên nhân, dựng lều cỏ ẩn cư trong núi, thôn làng này cũng được mang tên từ đó. Dương Phương lặng lẽ gật đầu, nghĩ bụng: “Nơi này núi non trùng điệp, như một lớp hàng rào bảo vệ, suối chảy uốn lượn, mây khói trập trùng, thế núi rất đặc biệt, ẩn hiện toát lên một không khí như tiên cảnh, đúng là phi phàm, Đồ Hắc Hổ dời mộ tổ tới đây hẳn là có người chỉ lối, nhưng không rõ cụ thể là chôn ở đâu, khoảng cách tới mộ của Tứ bảo tướng quân vẫn còn một đoạn đường dài.” Hai người hóa trang thành thợ dán giấy đi vào trong thôn, vừa giúp dân dán lại trần nhà vừa hỏi thăm tin tức mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ nhưng không hỏi được gì. Lúc đó có một gia đình giàu có trong thôn có tang, ông cụ nhà đó qua đời, trưởng thôn phải bận rộn lo việc tang cho nhà họ, vừa hay có hai tay thợ dán giấy tới làng, tay nghề cũng tương đối khá, vùng này chưa thấy ai tay nghề cao như vậy liền nhờ hai người phụ trách chuẩn bị đồ hàng mã. Dương Phương và Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn sợ dân làng nghi ngờ nên không có cách nào để từ chối, đành cố gắng phối hợp, bận tối mắt tối mũi tới tận khi trời tối mới được rảnh tay ăn cơm. Trưởng thôn tới tận nơi chúc rượu, còn nói may có hai vị tiểu sư phụ chuẩn bị đồ hàng mã rất đẹp, việc tang tổ chức rất hoành tráng, đúng là hai người vào nam ra bắc, đi nhiều biết nhiều chứ ở trong núi như bọn họ thì không ai có tay nghề cao đến vậy. Dương Phương hỏi: “Viên ngoại đúng là biết nhìn hàng, tay nghề của chúng tôi là của Phú Thọ Trang từ thời nhà Thanh truyền lại đấy, chuyên chỉ để phục vụ cho các phủ lớn ở Bắc Kinh, không biết đã làm cho bao nhiêu gia đình quan lại ở kinh thành rồi đấy, lần này tới đây gặp việc cũng là phúc phận của ông cụ và cũng là do chúng ta có duyên với nhau.” Trưởng thôn đồng tình, còn nói trần nhà ông ta cũng đã cũ, cần dán lại, nhờ hai người ít hôm nữa qua làm giúp rồi tính tiền một thể. Dương Phương nghe rồi cũng không mấy quan tâm, chỉ hỏi trưởng thôn lúc nào phát tang, ngày giờ phát tang hạ huyệt là phải xem cẩn thận. Anh ta đang tìm cơ hội để xem xét nghĩa trang của làng. Trưởng thôn nói đã mời thầy xem ngày rồi, chiều ngày mai phát tang, địa điểm cũng đã chọn. Người trong thôn chết đều được chôn trên núi sau thôn. Dương Phương tiếp lời: “Âm trạch là chuyện lớn, cần tìm nơi phong thủy tốt…” Trưởng thôn hơi quá chén, tiện mồm nói luôn: “Thôn Thảo Lư của chúng tôi là đất của Đạo giáo, không có chỗ nào là phong thủy không tốt, thôn của chúng tôi có từ thời Hán, vẫn luôn mưa thuận gió hòa, cho nên cũng không ai cố ý chọn nơi chôn cất cả. Mấy năm trước còn có người nơi khác tới chọn khe nứt dưới Lôi Công Lĩnh để chôn cất người nhà, thấy khiêng một quan tài xuống chôn dưới đó, còn thậm thà thậm thụt, bên ngoài quan tài bọc một lớp chiếu, đợi nửa đêm trời tối mới hạ huyệt. Họ không biết là đã bị thợ săn của thôn nhìn thấy, còn đòi giấu ai cơ chứ.” Trưởng thôn say rượu nói ra những lời đó là “vô tình”, nhưng Dương Phương và Mạnh Bôn hai người nghe lại “hữu ý”, chắc chắn là Đồ Hắc Hổ đã cho người dời mộ tổ tới đây, mặc dù hành sự bí mật nhưng đã bị người dân trong thôn nhìn thấy, cũng do Đồ Hắc Hổ chuyên làm việc thất đức, ông trời đã bắt hắn phải chịu báo ứng. Dương Phương nghĩ, giờ đã nhận lời sửa nhà cho Trưởng thôn mà lại ra đi đột ngột ắt bị nghi ngờ. Hai người bèn ở lại thôn Thảo Lư mấy hôm, tiện thể dò hỏi đường sá cho rõ ràng. Ba hôm sau, bọn họ rời khỏi thôn, đầu tiên là đi lòng vòng một lúc trên núi, sau đó chọn một lối không có đường mòn ít người đi lại để lên Lôi Công Lĩnh, tới nơi chỉ thấy vách núi như một bức tường thành, ngọn núi bửa đôi thành hai nửa, mây khói vờn xung quanh, dưới khe núi thông tùng mọc xum xuê, nước suối chảy róc rách, chỉ thấy “Mây vờn đỉnh núi trăm nghìn dạng/ Thác đổ một dòng dải lụa trong”, thi thoảng vài chú gà gô, chú báo gấm, chim rừng xuất hiện trong khe núi. Hai người bám vào vách núi leo xuống phía dưới, một lúc lại có vài chú chim bay lượn ngang qua người, dây leo mọc dọc theo vách núi xuống tận bên dưới. Phía bắc thôn Thảo Lư núi non trùng điệp, hết ngọn núi này tới ngọn núi khác kế tiếp nhau, từ xưa tới nay không có đường thông qua nơi này, rừng núi còn nguyên sơ hoang vu nên vẫn còn dấu tích của rắn rết và thú dữ. Người trong thôn hầu như không đi về hướng này, Dương Phương và Mạnh Bôn không sợ thú dữ, thổ phỉ, họ cũng không mang theo súng ống gì vì thời đó đi qua các cửa thành vẫn bị kiểm tra, nếu mang theo súng sẽ dễ bị chú ý. Dương Phương mang theo roi đồng, Mạnh Bôn nhìn thấy trong thôn có chiếc rìu chặt củi, tiện tay cầm luôn để còn chẻ quan tài, mọi người chuẩn bị chút lương khô, cứ thế là lên núi, chẳng coi mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ra gì. Lên tới miệng núi Lôi Công, thấy bên dưới sơn khe núi đá nhọn lởm chởm, hai bên vách núi dựng đứng, từng vệt mây trắng vờn quanh như những chiếc đai ngọc, bọn họ mò mẫm theo địa thế rắn cuốn về xuôi để xuống dưới khe núi. Dương Phương lấy tay quệt ít đất bụi trên nền đất đưa lên mũi ngửi, lại thấy màu đất và màu sắc cây cối ở đây cho thấy gần đây đất nơi này đã từng bị đào xới, liền gọi Mạnh Bôn tới bắt đầu ra tay từ chỗ đó. Lớp đất rất sâu, là đất sét, hai người đào nửa ngày, bên dưới lộ ra một cỗ quan tài sơn màu đen, trên nắp quan tài có một số tiền đồng, hai chiếc bát ngọc, tỏng bát vẫn còn dầu đèn, chắc lúc lấp huyệt thì đèn tắt. Trước đây nếu dời hòm chuyển mộ thì khiêng quan tài từ huyệt cũ lên phải thắp một ngọn đèn, trước khi chôn tại mộ mới thì đèn không được tắt, cũng là một thông lệ xưa. Dương Phương và Mạnh Bôn cũng có thông lệ, đó là đã đi ăn trộm không về tay không, về tay không là xui xẻo, có thứ gì lấy thứ đó, cứ thế vơ đại cho vào bao tải. 4 Mạnh Bôn hỏi Dương Phương: “Lục ca, anh nói xem đây có phải cỗ quan tài của tổ tiên nhà Đồ Hắc Hổ không?” Dương Phương nói: “Cỗ quan tài đúng là kiểu của thời nhà Thanh, nhưng bên trong là gì thì tôi không biết.” Nói chuyện tới đó thì trời vừa tối, Dương Phương thắp đèn bão lên, đi vòng quanh cỗ quan tài nghiên cứu, nhìn phần đất trên quan tài không giống với đặc tính đất xung quanh, có lẽ là đất từ mộ cũ được chuyển tới từ hai ba năm trước, anh ta nhìn kỹ đám đất đó, ggaajt đầu lia lịa với Mạnh Bôn, nói: “Không sai, chắc chắn là quan tài của vị tướng quân thời Thanh, cụ tổ nhà họ Đồ rồi. Tên Đồ Hắc Hổ đúng là cũng bỏ nhiều công sức vào việc chăm lo mộ tổ, lần này thì cho hắn biết tay.” Mạnh Bôn nghe nói đã mừng, xắn tay áo lên, rút rìu ra nhắm chuẩn vào quan tài bổ xuống. Ngôi mộ của vị tướng quân này không có nấm mộ cũng không có bia mộ là vì sợ có người tới đổ đấu, nhưng Dương Phương có đôi mắt quá lợi hại, biết được thế núi như thế nào thì huyệt ra sao, không thể không tìm ra. Thời tiêu diệt Niệm Quân là cuối thời Minh, quốc lực suy thoái, cỗ quan tài của một vị quan võ cũng không thể làm quá cầu kỳ, bên ngoài cũng không có quách, chỉ là một cỗ quan tài gỗ khá dày, đóng đinh cẩn thận, nhưng không thể trụ được sức mạnh của Mạnh Bôn, vài ba nhát rìu đã bổ bật nắp quan tài, một làn khói trắng bốc ra, bên trong là một cỗ thi thể. Dương Phương cùng Mạnh Bôn vội lùi lại phía sau lấy khăn che mặt, chờ âm khí trong quan tài tỏa ra hết thì mới đặt chiếc đèn bão xuống đất, thắp thêm ngọn nến cầm trên tay tiến lại gần xem xét. Bên trong là một thi thể có thân hình cao to lực lưỡng được quấn trong áo gấm, để râu dài, khuôn mặt như đang sống, áo choàng của tướng lĩnh, đầu đội mũ giáp, thân mặc áo giáp, trước ngực cầm thanh Thất tinh bảo kiếm, đều là những cổ vật trên trăm năm tuổi, ngoài ra trong cỗ quan tài không còn gì khác, đó cũng chính là phong cách mai táng của con nhà võ. Mạnh Bôn nói: “Lục ca nhìn xem, đây chính là bảo khôi, bảo giáp, bảo kiếm, còn thiếu con ngựa nữa, nhưng ngựa chết rồi cũng chẳng tác dụng gì, chỉ cần lấy ba thứ bảo bối này là đủ.” Dương Phương nói: “Tôi thấy còn một bảo bối nữa, người này chết đã năm sáu mươi năm nay, lại di chuyển quan tài vậy mà tướng mạo vẫn như đang sống, nếu tôi không nhìn nhầm thì trong miệng ông ta còn có một viên ngọc.” Mạnh Bôn nói: “Lục ca có nhìn nhầm bao giờ đâu, để em cạy ra xem có đúng là ngọc không…”, nói rồi dùng dây thừng buộc vào cỗ thi thể kéo đầu dậy, tay trái đỡ phía sau đầu, tay phải bóp hai bên má cho miệng thi thể há ra, bên trong quả là có một viên ngọc rất to, móc ra xem mới biết đó là viên Dạ quang châu. Dương Phương nhìn viên ngọc phát ra ánh sáng rất mạnh, biết đây là vật hiếm có, liền gói kín cho vào túi. Lúc này, Mạnh Bôn gỡ tấm áo giáp và những vật có giá trên thi thể đều lấy hết ra, mũ giáp là Bát môn kim đỉnh Thiên vương khôi, áo giáp là Tỏa tử liên hoàn thái tuế giáp, thanh bảo kiếm thì tay cầm được bọc da cá mập, trên thanh kiếm đen sì có khắc hình thất tinh bát đẩu. Nhìn lại thi thể trong quan tài, từ khi các bảo vật bị lấy đi thì thịt rữa da chùng bắt đầu có hiên tượng phân hủy. Hai người buộc chặt chiếc bao tải đã đựng đầy đồ, cho một mồi lửa thiêu cháy cả quan tài và thi thể bên trong, sau đó san chỗ đất vừa đào lên ra xung quanh, phá hủy hoàn toàn ngôi mộ. Sau khi trời sáng thì xuống núi, toàn bộ quá trình thần không biết quỷ không hay. Hai người đi một mạch về tới quán trọ ở ngoài thành Lạc Dương, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thôi lão đạo nghe, chờ tối đến vào phòng khóa trái cửa, thắp đèn lên, mở bao tải ra, bày từng món đồ lên bàn. Thôi lão đạo cười nói: “Biết trước là hai huynh đệ đã ra tay, không có việc gì không làm được.” Dương Phương nói: “Công đầu vẫn là của đạo trưởng, nếu không có đạo trưởng lấy được thông tin từ mụ hổ cái thì làm sao ta biết được mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ở trên núi Lôi Công chứ. Chúng tôi tới đó đào mộ lấy báu vật dễ như thò tay vào túi lấy đồ, chẳng tốn chút sức lực nào.” Thôi lão đạo gật đầu: “Đồ Hắc Hổ nằm mơ cũng không ngờ là mộ tổ nhà hắn đã bị đổ đấu.” Mạnh Bôn nói: “Vậy mới giải được nỗi hận trong lòng, tiên sư cái thằng Đồ Hắc Hổ, nó mà biết được chắc tức ói máu. Đạo trưởng thử nói xem mấy món này bán được bao nhiêu tiền.” Thôi lão đạo nói, đồ thời Thanh cũng có nhiều thứ đáng tiền, nhưng phải xem đó là đồ gì. Bộ áo giáp kia niên đại chưa lâu lắm, không phải là thứ đắt tiền, viên ngọc xem ra có giá hơn, hình như được truyền từ trong cung ra, có thể thời đó thắng trận nên được thưởng, cũng có thể là chiến lợi phẩm sau trận tiêu diệt Niệm Quân, mặc dù chỉ là một vật nhỏ bé thôi, nhưng không có viên thứ hai nào như vậy. Tiếp nữa là thanh bảo kiếm và hai chiếc chén ngọc đựng dầu thắp, đừng xem thường chiếc chén ngọc, nó là cổ vật thời Hán, chắc là Đồ Hắc Hổ đã đoạt được trong những lần đào trộm mộ. Thanh bảo kiếm là bảo vật thời Bắc Tống, cũng là một cổ vật hiếm có. Trước mắt, việc buôn bán trong nghề không được tốt cho lắm, nhưng những món đồ này mà được giao dịch thì cũng kiếm được một khoản lớn đấy. Thôi lão đạo nói tới đó thì dừng lại một lúc: “Số tiền này ba anh em chúng ta chia ba, lão đạo tôi cả đời nghèo đói lắt lay, không thể phát tài được, nếu phát tài ắt xui xẻo, phát bao nhiêu thì xui xẻo bấy nhiêu, nên phần của tôi sẽ dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn ở vùng Hoàng Hà, hai phần còn lại hai anh em cậu chia nhau, đây cũng là tiền của bất nghĩa, lấy cũng chẳng sao.” Dương Phương lên tiếng: “Đạo trưởng, tiểu đệ cũng được biết, từ xưa tới nay, phú quý chỉ là hư không, vinh hoa như bọt nước, chỉ có trung thần nghĩa sỹ anh hùng hào kiệt là được lưu danh muôn đời, với trách nhiệm phải luôn tiêu diệt kẻ tiểu nhân nên được người đời kính trọng, nếu đệ tham chút của cải này, thì thiên hạ đầy nhà giàu có, tội gì phải đi đào mộ nhà Đồ Hắc Hổ? Chúng ta mới đầu quyết tâm làm việc này, chẳng phải là để thay trời hành đạo diệt trừ kẻ ác sao, nên phần của tôi cũng giống như đạo trưởng, sẽ dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn.” Mạnh Bôn nói: “Hai vị đừng trượng nghĩa quá, thời buổi này bước ra khỏi cửa là phải cần tiền, ở trọ phải trả tiền nhà, ăn cơm phải trả tiền cơm, chúng ta ít nhiều cũng phải để lại một ít phòng thân chứ.” Dương Phương nói: “Cũng đúng, hay là để lại một ít?” Thôi lão đạo là anh cả, mở miệng ra nói chia tiền ngay thì cũng ngại, lão ta biết Mạnh Bôn thế nào cũng nói vậy, liền gật đầu: “Vậy thì để lại một ít, nhưng không được nhiều.” Ba người bàn bạc xem nên đem mấy món này đi bán ở đâu, tới tận nửa đêm mới đi ngủ. Sáng hôm sau, cả hội thu dọn hành lý lên đường. Thôi lão đạo chân cẳng què quặt, không thể đi đường dài, Dương Phương mua một cỗ xe lừa cho lão ngồi, ba người vừa đi vừa nghỉ, dọc đường hoang vắng ít người, tới trưa thì nghỉ chân tại một quán mì, vừa gọi mấy bát mì ngồi ăn thì thấy bên ngoài có một nhóm người đi ngang qua, trên xe lừa có một cỗ quan tài còn mới, xem ra là đưa người quá cố về quê an táng. Bọn Dương Phương đều hành tẩu giang hồ đã lâu, chỉ cần nhìn vết xe là biết trong cỗ quan tài đựng khá nhiều đồ, không thể chỉ là một thi thể người chết. Còn nhóm người kia tất cả có bốn người gồm ba nam một nữ, dẫn đầu là một người trung niên khoảng trên năm mươi tuổi, tuổi chưa già, nhưng hai bên tóc mai đã điểm bạc, mặc bộ đồ quê mùa đơn giản, nhưng khí chất phi phàm, thái độ hòa nhã, bên cạnh ông là cô gái trong bộ trang phục thôn quê, nhưng nhìn là biết con gái nhà thành thị, lông mày lá liễu, tóc búi gọn gàng, hai mắt to tròn, thần thái nhẹ nhàng như nước mùa thu, xinh đẹp tới mức khiến người ta không dám nhìn thẳng vào mặt cô. Hai người còn lại, một người như là người hầu, cắt mái tóc như chiếc nồi úp, người còn lại là một thanh niên lực lưỡng, hai mắt liếc ngang liếc dọc, trông không giống người tốt chút nào. Bọn Dương Phương đều thấy lạ, dựa vào nhãn lực của bọn họ làm sao mà không biết nhóm người kia làm gì, nhưng vì lúc này không muốn xảy ra chuyện nên không để ý tới họ, chỉ chăm chú ăn. Thôi lão đạo ăn được một nửa thì hạ giọng nói với Dương Phương và Mạnh Bôn: “Sáng nay, tôi nhìn trời thấy có một tia sáng đỏ như máu, là dấu hiệu rất khác thường, chỉ e hôm nay thời tiết sẽ thay đổi, nếu trời nổi giông tố thì nước sông Hoàng Hà lại dâng lên. Chúng ta phải lên đường sớm không lại gặp nạn lớn ở sông Hoàng Hà đấy.” Mạnh Bôn nói: “Đạo trưởng à, lên đường sớm thế làm gì, ngày nào mà chẳng vậy.” Thôi lão đạo nói: “Cậu ngốc này! Tôi xem không sai đây, chỉ nay mai thôi, thể nào cũng có chuyện.” Dương Phương nói: “Hoàng Hà đã từng lụt rồi, nếu lại có thiên tai nữa thì dân sống sao nổi.” Thôi lão đạo nói: “Đường thì còn xa, trời đất không ngừng phẫn nộ, cứ xem đi, chuyện lớn còn chưa tới đâu.” Tục ngữ có câu: “Họa tại miệng”, chỉ vì câu nói đó của Thôi lão đạo mà rước đến một đại họa diệt thân. 5 Trong tiệm mì chỉ có hai nhóm người đang ngồi ăn, người đàn ông mang theo cỗ quan tài ngồi ngay sau bàn Thôi lão đạo, ông ta và cô gái nhìn thấy Thôi lão đạo và hai người thợ dán hồ giấy tuy ăn mặc rách rưới nhưng không che được khí thế anh hùng, không nén nổi lén nhìn sang bên này, nghe Thôi lão đạo nói thời tiết có thể sẽ thay đổi, Hoàng Hà sắp xảy ra nạn lớn, liền quay sang hỏi: “Thưa đạo trưởng, tôi thấy mấy ngày nay thời tiết rất đẹp, sao có thể biết được thời tiết sẽ thay đổi?” Thôi lão đạo nói: “Vô lượng thiên tôn, tôi không có khả năng thấy trước, chỉ là xem hướng gió nhìn sắc trời mà biết thôi.” Người đàn ông nói: “Lão đạo có bản lĩnh như vậy, xin cho hỏi tu hành ở danh sơn động phủ nào?” Mạnh Bôn nhanh miệng, chưa đợi Thôi lão đạo nói đã trả lời: “Làm gì có danh môn động phủ nào, dạo trưởng nhà chúng tôi không nhà không cửa không tiền bạc, đêm ngủ trong lò gốm ở thành Nam, ngày bày quán xem bói ở cổng thành thôi.” Người đàn ông nghe vậy cười nói: “Hóa ra là thủ đoạn giang hồ…” nói rồi quay đầu đi, không thèm nói chuyện với hội Thôi lão đạo nữa. Nếu lúc bình thường thì Thôi lão đạo cũng không chấp, nhưng lúc đó do kích động, trong lòng nghĩ: “Trông người đàn ông này không phải tầm thường, hẳn là người có thân phận địa vị cao, trước giờ rất coi thường những kỹ xảo giang hồ, nếu hôm nay mình không thể hiện bản lĩnh thì đến hai vị huynh đệ kia cũng sẽ coi thường mình.” Thôi lão đạo nghĩ vậy liền cười ha hả, nói: “Tình cờ gặp nhau cũng coi là có duyên, lão đạo ta ngày hôm nay cũng học Trương thiên sư bán thuốc, sẽ bói cho lão huynh một chữ được chứ? Nếu nói đúng phiền lão huynh truyền tên giúp tôi, nếu nói không đúng thì xin chớ cười.” Cô gái có vẻ không ưa mấy chuyện này, khuyên người đàn ông đừng quan tâm đến bọn lão đạo giang hồ, tránh mắc lừa, người đàn ông thì lại hiếu kỳ, nói: “Được, cũng thú vị lắm.” Nói rồi lấy một chiếc đũa chấm vào bát nước chấm rồi viết lên bàn một chữ “Lộ”, rồi nói: “Đạo trưởng vừa rồi nói rất đúng, chúng ta tình cờ gặp nhau, đều là người đi đường, vậy xin bói cho tôi chữ ‘Lộ’ đi.” Thôi lão đạo nhìn chữ đó một lúc rồi cười nhạt, nói: “Ngôn ngữ là tiếng nói của con tim, chữ là bức tranh của con tim, xem lão huynh viết chữ cũng có chút mạnh mẽ cứng cáp, hẳn là người dám làm dám chịu, vậy cứ bói chữ này đi, không biết lão huynh định hỏi việc gì?” Người đàn ông nói: “Đạo trưởng nói xem tôi kiếm cơm bằng nghề gì?” Thôi lão đạo nói: “Chữ ‘Lộ’[1'> bắt đầu bằng chữ khẩu, xem ra lão huynh cũng giống bần đạo, kiếm cơm bằng miệng.” [1'> “Lộ” chữ Hán là 路,bắt đầu bằng bộ口, tức là miệng. Cậu dứt lời, người đàn ông và những người xung quanh đều biểu lộ sự ngạc nhiên. Dương Phương và Mạnh Bôn thì cười thầm trong bụng, Thôi lão đạo lại đoán trúng rồi. Người đàn ông hộ tống cỗ quan tài hoàn toàn không giống nông dân, chữ viết cũng tốt, đương nhiên là kiếm cơm bằng miệng rồi, còn nghề bằng miệng thì nhiều lắm, trong giang hồ bói toán, ca hát, kể chuyện thì đều là nghề bằng miệng cả. Dạng người được ăn sung mặc sướng thì không thể làm việc nặng nhọc, làm ăn buôn bán, làm quan cũng đều phải nói, chẳng phải là nghề bằng miệng cả sao? Có điều bản lĩnh ứng biến linh hoạt của Thôi lão đạo thì không ai bằng. Người đàn ông nói: “Không giấu đạo trưởng, tôi làm nghề buôn bán, hiện giờ phải mang cỗ quan tài này đi làm một việc lớn, nhưng chưa biết chuyến đi này kết quả ra sao, xin đạo trưởng chỉ giáo.” Thôi lạo đạo chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn: “Chữ ‘lộ’ này bắt đầu bằng chữ khẩu, kết thúc cũng bằng chữ khẩu. Trong chữ khẩu lại không có gì cả, lúc đến chữ khẩu không có gì, lúc đi chữ khẩu cũng không có gì, lão đạo tôi nói câu không hay xin ngài đừng trách, chữ này không phải là một điềm tốt.” Người đàn ông nghe rồi có vẻ thất vọng, bất chợt ngồi im không nói gì, cùng ông đi theo hộ tống cỗ quan tài, chính là cậu thanh niên vai u thịt bắp đập bàn đánh rầm đứng dậy, hét lên: “Ông chủ, ông đừng nghe lão đạo đó nói năng linh tin, mấy trò tiểu xảo giang hồ đó lừa được ông chứ không lừa được Biên Hải Long tôi đâu, ba đứa này rõ ràng là dân đào trộm mộ, mới gặp là tôi đã ngửi thấy mùi âm khí của mồ mả trên người chúng nó rồi, không chừng còn mang theo cả đồ móc trộm nữa đấy, có dám bỏ đồ ra cho mọi người xem không…” Biên Hải Long vừa nói xong liền rút ra khẩu súng ngắn Mauser, hắn ta chỉ định nổ súng để dọa người thị uy thôi chứ không phải để bắn ai, nào ngờ vừa rút súng ra thì chiếc roi của Dương Phương cũng vừa quất tới, ra tay quá nhanh, mọi người chỉ nhìn thấy thứ gì đó vút qua trước mặt, nghe th