ấy tiếng roi quất một tiếng, khẩu súng trong tay Biên Hải Long bị đánh rơi xuống đất vỡ tan, tay của hắn bị quất chảy máu, chiếc bàn trước mặt vỡ làm đôi, hắn đứng đờ ra không biết phải làm gì. Không ai nhìn thấy lúc đó xảy ra chuyện gì, đợi khi Biên Hải Long định thần trở lại, biết mình gặp phải đối thủ, xấu hổ bỏ chạy ra khỏi quán, không dám quay đầu lại. Dương Phương đánh rơi súng của người khác mà thần khí, nét mặt không thay đổi, trên mặt không biểu hiện cảm xúc nhưng trong lòng rất đắc ý, quay về phía người đàn ông chắp tay cúi chào, nói một câu: “Đắc tội” rồi thu roi lại. Mạnh Bôn chỉ vào người đàn ông rồi nói với chủ quán: “Tổn thất thì sẽ do người này đền, vì người của ông ta ra tay trước.” Ông chủ quán mì là người thật thà, nào dám lên tiếng. Cô gái đứng dậy trả tiền, nói rằng tiền đền bù bàn ghế bị đánh hỏng, tiền ăn của tất cả mọi người, còn hỏi chủ quán là tiền trả đã đủ hay chưa. Chủ quán run rẩy nhận lấy tiền, nói: “Đủ rồi, đủ rồi. Mua luôn toàn bộ quán chúng tôi cũng đủ rồi, các vị cứ tự nhiên… tự nhiên…”, rồi lủi ngay vào phòng trong, gọi thế nào cũng không dám ra. Người đàn ông được Biên Hải Long gọi là ông chủ đứng dậy nói: “Chàng thanh niên đi cùng đạo trưởng đây tuổi còn trẻ mà thân thủ phi thường, chắc không phải là thợ dán giấy rồi, các vị không lẽ đúng là dân đi đào trộm mộ.” Thôi lão đạo nhìn nhóm người này văn không ra văn, võ không ra võ, đẩy một cỗ quan tài, lại có người mang theo súng đi cùng, nói là dân áp tải hàng cũng không phải, dân áp tải hàng kỵ nhất là sinh sự gây chuyện. Giờ đã bị bọn họ phát hiện ra trên người có đồ tang lễ, không còn cách giấu giếm, nhưng Thôi lão đạo rất biết cách lựa: “Không nói giấu gì, ba anh em chúng tôi có tên tuổi đàng hoàng, giang hồ gọi là Thiết chủy đại vương hoạt Tử Nha Thôi Đạo Thành, Trại Ly miêu đả thần tiên Dương Phương, Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn. Chúng tôi mang trong mình tấm lòng trung nghĩa, noi gương các anh hùng hiệp sỹ, lập trí trừ gian diệt ác, giúp đỡ dân nghèo. Thời buổi này nhiều loạn lạc, trên không có vương đạo, dưới không có vương pháp, dân chúng không còn đường sống. Anh em chúng tôi không thể không thay trời hành đạo, đã tới thôn Thảo Lư ở Lôi Công Lĩnh đào mộ tổ của thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, giờ đang trên đường đem những thứ đào được đổi thành lương thực để cứu tế cho người dân bị nạn vùng Hoàng Hà. Chúng tôi tuy thân phận thấp hèn, nhưng đã có lời thề không bao giờ lấy đồ bất nghĩa, cũng không lấy những vật vô danh, chúng tôi không phải dân đào trộm mộ.” Người đàn ông nghe xong, nhìn hội Thôi lão đạo một lượt, rồi nghiêm túc nói: “Nghe danh đã lâu, nay được mở mang tầm mắt, tôi thực vinh dự được gặp đạo trưởng và các vị. Tôi cũng có một việc muốn nói để mọi người rõ.” Hóa ra, thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ vẫn thường đào trộm mộ rồi đem quốc bảo bán cho người nước ngoài, khiến trời đất đều nổi giận. Hiềm nỗi thời thế loạn lạc, Đồ Hắc Hổ tay nắm binh quyền, không ai dám động vào hắn. Gần đây, Đồ Hắc Hổ điều binh hoạt động tại thành Khai Phong, đang định đào trộm ngôi chùa cổ thời Bắc Tống đã bị mất tích. Ngôi chùa cổ này rất lớn, vị trí nằm tại ven sông Hoàng Hà, được gọi là Hộ Quốc đại Phật tự. Nhưng từ xưa tới nay, lụt lội quanh vùng sông Hoàng Hà đã diễn ra liên miên, đất lở đất bồi, lòng sông ngày một dâng cao, vậy mới có câu nói Khai Phong là sông trên trời, sông còn cao hơn thành, cộng thêm mấy lần thay đổi dòng chảy của sông, nước lụt nhiều lần nhấn chìm ngôi chùa. Những năm vua Tống Nhân Tông trị vì, thành đô là Biện Lương, nhà vua cho xây ngôi chùa Đại Hộ Quốc này bên dòng sông Hoàng Hà để cầu cho dân chúng được bình an. Trong chùa thờ hai tượng Phật trăm tay nghìn mắt, một to một nhỏ, bức tượng nhỏ được làm bằng vàng trên khảm rất nhiều ngọc ngà châu báu, là báu vật vô giá của thời nhà Tống. Ai ngờ, sau một trận đại hồng thủy vô tiền khoáng hậu, đất bên bờ sông bị lở đã nhấn chìm cả ngôi chùa. Thời gian trôi qua, vật đổi sao dời, triều đại thay đổi, chẳng còn ai biết được vị trí ngôi chùa bị nhấn chìm ở chỗ nào nữa. Thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ nghe nói bức tượng nghìn tay nghìn mắt là báu vật vô giá liền đem quân đi tìm di tích ngôi chùa, mong tìm lại được bức tượng để đổi cho bọn người Tây lấy quân hỏa. Người đàn ông họ Triệu này là một thương nhân giàu có, thời trai trẻ thích giao du mạo hiểm, say mê khảo cổ sưu tầm hiện vật, thường tìm cơ hội ra nước ngoài mua lại những cổ vật bị lưu lạc. Được biết Đồ Hắc Hổ chuyên đi đào mộ cổ đã nhiều lần viết thư cho cơ quan địa phương nhưng các quan lại vùng này đều nhận tiền đút lót của Đồ Hắc Hổ nên ai cũng muốn yên thân, không ai dám lên tiếng, đều thoái thác do không có chứng cứ cụ thể nên không giải quyết. Ông chủ Triệu không có cách nào khác đành lên kế hoạch tìm ra ngôi chùa cổ trước Đồ Hắc Hổ, cất giấu tượng phật nghìn tay nghìn mắt, để rơi vào tay bọn quân phiệt thì không hay chút nào, lỡ lưu lạc ra nước ngoài, bản thân chúng ta là con cháu Trung Hoa, sau này còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông. Thời thế loạn lạc, phải dùng cách của bọn trộm để phòng trộm vậy, cũng là cách bần cùng bất đắc dĩ. Ngoài ra, căn cứ vào tài liệu lịch sử, ngôi chùa bị vùi sâu trong cát này còn có một bí mật khác. Trong cỗ quan tài cất giấu súng săn, đèn pin, mũ bảo hiểm, xẻng v.v… Mang theo súng săn là để phòng khi gặp thổ phỉ, tất cả các vật dụng đều để trong quan tài. Mượn danh đưa người thân về quê mai táng, thứ nhất để tiện đi lại trên đất do quân phiệt chiếm lĩnh, tránh gây sự chú ý, lại chi một khoản tiền lớn thuê một người tên Biên Hải Long, là dân đào trộm mộ đi hỗ trợ, không ngờ người này khứu giác không tồi nhưng quá nhát gan, mới ra tay đã bị Dương Phương đánh cho bỏ chạy, những người còn lại ngoài ông chủ Triệu ra còn có cô cháu gái tên Đạm Đài Minh Nguyệt, người còn lại để mái tóc như chiếc nồi úp là người hầu, gia đinh nhà họ Triệu, tên Triệu Nhị Bảo, mặc dù không có bản lĩnh gì, nhưng theo hầu ông đã nhiều năm, rất trung thành, đáng tin cậy. Ông chủ Triệu nói, nếu không có sự giúp đỡ của dân đào trộm mộ chuyên nghiệp thì khó hoàn thành được việc lớn, lại cần phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, th rất gấp rút, không còn kịp để tìm người mới, có ý nhờ hội Thôi lão đạo giúp cho một tay, sự việc thành công sẽ hậu tạ. Thôi lão đạo vừa rồi mới thao thao bất tuyệt, nào là tấm lòng trung nghĩa, nà là hiệp sỹ hào kiệt, thế nên với lớn vì dân vì nước này không làm sao được? Lão đạo quay sang bàn bạc với Dương Phương và Mạnh Bôn, nói chung chỉ cần là việc làm chống lại Đồ Hắc Hổ thì họ đều đồng tình ủng hộ, huống hồ còn được trả tiền. Hơn nữa tìm một bức tượng nghìn tay nghìn mắt thì có gì là to tát đâu, chỉ cần một mình Dương Phương đi là được, Thôi lão đạo chân cẳng không nhanh nhẹn, Mạnh Bôn sẽ đưa ông qua sông trước, vài bữa nữa cả hội sẽ gặp nhau tại thị trấn Cao Đài phía bắc sông Hoàng Hà. Ông chủ Triệu thấy Dương Phương đồng ý giúp đỡ thì cảm ơn rối rít, trong lòng nghĩ: “Có được sự giúp đỡ của người này thì một người bằng mười người.” Hai nhóm người chia tay tại quán, Dương Phương dặn dò Mạnh Bôn: “Huynh đệ, cậu chăm sóc cho đạo trưởng, tôi đi ít hôm rồi về.” Thôi lão đạo cũng dặn dò: “Lục đệ! Ta thấy thiên thời không được tốt, có khả năng sẽ có họa lớn đấy, mọi người dọc đường phải hết sức cẩn thận. Ngoài ra, tên Đồ Hắc Hổ rất lợi hại, nếu hắn quyết tâm đi tìm tượng Phật thì không chừng sẽ chạm mặt với mọi người, cậu phải chú ý, nhớ lời của ta thà bị đánh trên mặt đất, còn hơn bị chôn dưới lòng đất. Không được hành sự bốc đồng, các cụ đã dạy rồi ‘Bá Vương tự tử ở sông Ngô Giang, Chu Du có tài nhưng mệnh đoản, bao nhiêu anh hùng hào kiệt trước khi xuất trận thì dũng mãnh nhưng cuối cùng cũng thiệt mạng vì bốc đồng’, một khi gặp phải nguy hiểm, ba mươi sáu kế kế chuồn là thượng sách, với bản lĩnh của cậu, thoát thân không phải là khó.” 6 Dương Phương nói: “Đạo trưởng cứ yên tâm, tôi ghi nhớ cả rồi.” Trong lòng lại nghĩ: “Đồ Hắc Hổ mặc dù ghê gớm nhưng đánh tay đôi với mình thì mình cũng chẳng sợ hắn.” Tại quán ăn, Thôi lão đạo bói cho ông chủ Triệu chữ “Lộ”, cho thấy chuyến đi này không thuận lợi. Lão ta vốn bói mười quẻ có tới chín quẻ sai, chỉ toàn áp dụng mấy trò tiểu xảo giang hồ. Nhưng lăn lộn trong giang hồ lâu năm, lão cũng có khả năng nhìn việc nhìn người rất chuẩn, cảm thấy có việc lớn sắp xảy ra khiến trong lòng bất an, cứ dặn đi dặn lại Dương Phương phải hết sức cẩn thận, sau đó mới cùng Mạnh Bôn qua sông đi về hướng Bắc. Không nói đến chuyện Thooi lão đạo qua sông thế nào. Còn bốn người bọn Dương Phương, men theo bờ sông đi theo hướng đông, thời đó loạn lạc, đi ra ngoài không dám quá lộ liễu, mọi người phải cải trang thành người dân quê, kéo theo cỗ quan tài, cũng chẳng có ngựa, vì nếu có ngựa sẽ bị quân thổ phỉ giết người cướp của chú ý tới. Ông chủ Triệu rất quan tâm tới Dương Phương, hỏi: “Nghe đạo trưởng gọi cậu là Dương Phương? Đó là tên thật của cậu?” Dương Phương trả lời: “Tôi chỉ là đứa trẻ mồ côi, chẳng biết bố mẹ ở đâu, làm gì có tên thật. Năm đó, sư phụ tôi đã mua tôi từ nhà họ Phương ở huyện Dương nên đặt tên cho tôi là Dương Phương”. Ông chủ Triệu nói: “Hóa ra là vậy, đúng là anh hùng không cần hỏi xuất thân. Thân thế của Dương huynh đệ có phần giống đứa cháu gái của tôi”. Dương Phương hỏi lại: “Ông chủ Triệu nói vậy là sao?” Đạm Đài Minh Nguyệt nghe nhắc tới tên mình thì vội lên tiếng: “Chú! Chú đừng nói với anh ta”. Ông chủ Triệu trả lời: “Không sao! Dương huynh đệ không phải là người ngoài”, rồi bắt đầu kể: “Đứa cháu gái này của tôi cũng là đứa bé tội nghiệp không có cha mẹ”. Dương Phương hỏi: “Đại tiểu thư cũng không có cha mẹ từ nhỏ?” Ông chủ Triệu gật đầu: “Đúng thế! Chuyện đầu đuôi thế nào đến nó cũng không rõ. Hôm nay nhân tiện tôi sẽ kể cho hai đứa nghe luôn. Chuyện là hai mươi năm trước, thời vẫn còn triều đại nhà Thanh ấy.” Cuối thời Thanh, ông chủ Triệu vẫn chưa giàu có như bây giờ, để kiếm tiền đi học, đã mạo hiểm theo người Anh vượt biển xuống Nam Hải đầu cơ, không ngờ dọc đường gặp bão suýt chút nữa chìm tàu, cột buồm bị gió đánh đổ, chỉ còn cách lênh đênh trên biển, cho đến khi lương thực và nước đã cạn, sắp bị chết đói thì gặp bọn hải tặc, nhìn thấy bộ quần áo nhà Minh, bọn họ liền kéo thuyền vào một hòn đảo hẻo lánh, trên đảo cây cối um tùm, có một chiếc hang rất lớn, bên trong nhiều nhà cửa, trông giống như một thành trì, ông chủ Triệu bị bọn hải tặc đưa vào phía sâu trong động cùng những tù binh khác. Chỉ thấy bên trong thờ một bức tượng đất, ăn mặc trang phục cổ, đầu đội mũ giáp, đây chính là bức tượng tổ tiên của bọn hải tặc. Trong động, vàng bạc châu báu chất cao như núi, thủ lĩnh bọn hải tặc là người khảng khái, đối xử không tồi với ông chủ Triệu, cho ăn uống đàng hoàng, hỏi thăm ông về tình hình ở nhà, còn kết nghĩa anh em với ông. Một đêm, thủ lĩnh hải tặc mời ông tới một gian nhà đá cùng uống rượu hàn huyên, kể lại lai lịch của chiếc hang động mà quân hải tặc đang cư trú này. Đó là trước khi Bát kỳ thiết giáp của quân Mãn Thanh tràn vào thành, có một đội quân bại trận của nhà Minh, dưới dự thống lĩnh của một vị tổng quan đã tháo chạy ra hoang đảo ngoài biển làm hải tặc. Vị tổng quan đó biết xem phong thủy, nhìn thấy địa thế tuyệt vời của hòn đảo này có thể dùng để chặn cướp tàu của nhà Thanh. Nhưng phụ nữ không được phép ở lại trên đảo quá một năm, nếu không sẽ phá hỏng phong thủy của hòn đảo này, một khi phong thủy bị phá hỏng thì số phận hòn đảo cũng coi như chấm hết. Vì vậy lập ra quy định, những người phụ nữ cướp được về trên đảo, phải giết hết trong vòng một năm, nếu sinh ra con gái cũng phải giết hết, không được để sót, tránh vị trí hòn đảo bị tiết lộ ra ngoài, quân triều đình sẽ tới tiêu diệt đảo. Hai trăm năm sau đó, những người sinh sống trên đảo không ai dám làm trái lời dạy của tổ tiên, truyền tới đời thống lĩnh hải tặc này vẫn vậy. Năm ngoái, bọn hải tặc cướp về được một thiếu nữ có dung mạo tuyệt trần, sau đó cô gái có mang với thủ lĩnh, hai người yêu nhau thực sự, thủ lĩnh hải tặc không nỡ giết người con gái đó, một năm sau cô gái sinh được một bé gái, nếu để bị phát hiện, cả hai mẹ con sẽ bị giết. May mắn lúc đó tàu ông chủ Triệu bị bắt vào đảo. Thấy người này tác phong khác người, hẳn không chịu khuất phục người khác, liền kết nghĩa anh em, còn tặng nhiều vàng bạc, sửa sang lại con tàu của ông chủ Triệu, nhờ ông đem vợ con chạy trốn khỏi đảo. Không ngờ trong lúc chạy trốn lại bị quân hải tặc phát hiện. Đám người này và nhóm trung thành với thủ lĩnh hải tặc phát sinh mâu thuẫn kịch liệt, một trận đấu súng nổi lên, hầu như cả hai bên đều chết hết, thành trì trong động cũng bị cháy sạch, những người sống sót sau trận đấu súng cũng bị đám cháy thiêu rụi, người phụ nữ nhảy xuống biển tự tử theo chồng, chỉ còn lại đứa bé gái tròn hai tháng tuổi mà ông chủ Triệu bế trên tay. Ông ngồi thuyền chạy thoát khỏi đảo, từ đó giàu có, coi đứa bé như con đẻ của mình, chỉ biết thủ lĩnh hải tặc họ Đạm Đài, trong đêm ông bỏ chạy trăng sáng vằng vặc nên đặt tên cho đứa bé là Minh Nguyệt. Có thể nói, tính mệnh và của cải của ông đều do thủ lĩnh hải tặc ban tặng, nếu không có đứa bé này thì ông cũng không thể sống để rời khỏi hòn đảo đó. Đạm Đài Minh Nguyệt từ bé đã thích cưỡi ngựa săn bắn, có thể là di truyền từ bố. Ông chủ Triệu cũng không có cách nào mà quản được, nuông chiều hết mực, đòi trăng trên trời thì chẳng dám hái sao, chỉ còn cách mời thầy về dạy bắn cung, cưỡi ngựa, múa kiếm. Nhưng lần này là đối đầu với thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, quá mạo hiểm. Ông nói với Dương Phương, nếu chuyến đi này ông có gì bất trắc, nhờ Dương Phương trông nom Đạm Đài Minh Nguyệt hộ ông. Vì ông linh cảm thấy điều không may, lại không thể giương mắt lên nhìn quốc bảo bị đánh cắp để đổi lấy vũ khí quân đội, đành phải đem thân liều mình vào chốn nguy hiểm. Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Chú đừng nói mấy lời không may mắn đó, cháu không cần ai phải chăm lo, chú cũng sẽ không sao cả.” Dương Phương vốn nghĩ chỉ là vớt bức tượng nghìn tay nghìn mắt dưới lòng sông lên thôi, chẳng có gì to tát, có gì mà mạo hiểm? Vì vậy cũng khuyên ông chủ Triệu không nên quá lo lắng, Đồ Hắc Hổ chỉ là quân phiệt, mộ tổ của hắn thì Dương Phương tôi cũng đã đào rồi, hắn còn làm gì được tôi? Ông chủ Triệu nói: “Dương huynh đệ tài năng xuất chúng, nhưng không nên vì anh hùng thì phải khiêm nhường mà cam tâm chôn vùi tài năng của mình. Với kỹ năng này của cậu, sao lại chỉ dùng vào việc đào trộm mộ quân phiệt được, sao cậu không nghĩ tới chuyện xây dựng nghiệp lớn?” Dọc đường, ông chủ Triệu cũng tâm sự rất nhiều, nhưng Dương Phương không nghĩ như vậy: “Nếu để cho ông chủ Triệu này ăn bánh ngô hấp với rau muối vài tháng thì ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà lo việc dân việc nước nữa.” Chiều ngày hôm đó, họ tới một bến phà bên bờ sông Hoàng Hà, đây là một khúc quanh của dòng sông, chỉ thấy dòng nước chảy xiết, nước cuộn ầm ầm. Phía nam bờ sông là bên đất bồi, khoảng không rộng lớn, có mấy gian nhà đất nhấp nhô, bên trên cắm một ngọn cờ đã cũ rách, viết chữ “Quán trọ Cổ Độ”, gió mạnh thổi cờ bay phần phật, phía xa xa có mấy con chó hoang đang gặm xương người, một vùng hoang vắng, nhìn ra xa nữa chỉ là những điểm đen nhỏ li ti. 7 Ông chủ Triệu nhìn bản sơ đồ một hồi lâu, nói với ba người còn lại, theo kinh nghiệm thu thập cổ vật và khảo cổ của ông, ngôi chùa cổ thời Bắc Tống nằm ở vị trí này, chính điện của ngôi chùa đã bị nhấn chìm trong đám bùn đất của sông Hoàng Hà trong những trận đại lụt. Đồ Hắc Hổ cho rằng ngôi chùa cổ ở vị trí gần thành Khai Phong, nên đội quân phiệt chỉ đào bới xung quanh thành. Cách đó rất xa, có một quán trọ hẻo lánh, cả nhóm tạm thời dừng chân ở quán trọ rồi tìm kiếm kỹ càng sau, chắc chắn sẽ có thu hoạch, đừng để người khác phát giác. Dương Phương nói: “Ông chủ Triệu không biết đấy thôi, nghe nói quán trọ bên bờ sông là một hắc điếm, chuyên làm bánh bao nhân thịt người, ông chở một quan tài đưa người chết về quê mai táng chỉ là để che mắt quân phiệt, nhưng không thể nào qua mắt được bọn giang hồ kia, nếu vào ở trọ chắc chắn bị bỏ thuốc mê, giết thịt làm nhân bánh, đầu, chân tay và xương thì bị vứt xuống sông Hoàng Hà.” Ba người nghe nói vậy thì đều cảm thấy buồn nôn, bất giác rùng mình. Thời thế loạn lạc, chuyện bán bánh bao nhân thịt người chưa chắc chỉ là lời đồn. Nhị Bảo thốt lên: “May có Lục ca nhắc nhở, nếu không mình trọ lại ở đây chắc ăn phải bánh bao nhân thịt người mất.” Dương Phương nói: “Huynh đệ, tụi mình ăn phải mấy chiếc bánh bao nhân thịt người cũng không sao, chứ trông cậu toàn thân đều là thịt ba chỉ thế nào, là loại thịt cao cấp làm nhân bánh bao đấy, chủ tiệm nỡ tha cho cậu sao, cho một liều thuốc mê, lột hết quần áo, trói lên bàn mổ…” Nhị Bảo kinh hoàng: “Lục ca à, nghe nói hắc điếm cũng là hảo hán lục lâm, họ cũng phải phân biệt tốt xấu chứ, gặp người là giết hết sao?” Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Nhị Bảo đừng tin anh ta nói xằng, anh ta đã ở quán trọ này đâu mà biết, dựa vào đâu mà nói người ta là quán bánh bao nhân thịt người?” Ông chủ Triệu nói: “Không thể không đề phòng, Dương huynh đệ nói không sai. Chúng ta kéo theo một cỗ quan tài đi trên đường còn lý giải được, nếu ở trọ dài ngày trong quán nhất định sẽ gây sự chú ý. Dương huynh đệ, theo ý cậu chúng ta nên làm gì?” Dương Phương nói: “Theo quy tắc giang hồ, đành phải trả thêm ít tiền cho chủ tiệm, nói rõ sự tình, bảo họ đừng quản việc người khác.” Bốn người bàn bạc xong xuôi, đánh xe tiến về phía quán trọ. Tới gần mới biết, trong đó không một bóng người, bụi bám dày đặc. Xem ra, từ trận lụt trước đây thì mọi người đã tháo chạy hết, chỉ còn lại mấy gian phòng ẩm thấp, thông thống gió, nhưng như vậy cũng bớt được rất nhiều phiền phức. Triệu Nhị Bảo không còn lo bị người ta giết thịt làm nhân bánh nữa, cậu ta vui vẻ buộc lừa bên ngoài cửa tiệm, rồi lại bận rộn dọn dẹp phòng trọ. Trời cũng vừa sập tối, gió mạnh dần lên, tiếng gió rít nghe như tiếng sói tru ma khóc, chân trời một màu vàng ệch. Có quán trọ hoang làm chốn nghỉ chân, mọi người cũng an tâm phần nào, nếu không nhà không cửa mà gặp phải trận cuồng phong này thì không còn cách nào để qua đêm cả. Mọi người chuyển cỗ quan tài nặng trịch đó vào bên trong, ăn qua loa vài miếng lương khô lót dạ. Nhị bảo xuống bếp đun nước, ông chủ Triệu nói chuyện với Dương Phương và Đạm Đài Minh Nguyệt: “Chúng ta phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian không đợi chúng ta, đêm nay nghỉ ngơi cho tốt, sáng sơm mai là bắt tay vào tìm chùa Đại Hộ Quốc ngay.” Dương Phương mở quan tài ra xem xét, bên trong có bốn khẩu súng săn hai nòng và thuốc nổ. Giờ nơi đây hoang vu không một bóng người, đêm đến ngoài thú hoang ra thì chỉ sợ gặp thổ phỉ nên vẫn cần có súng để phòng thân. Ngoài ra còn có đèn pin, xẻng đào đất, đến đồ đi săn và lương khô v.v… đều chuẩn bị đầy đủ. Ông chủ Triệu giở cuốn sổ vẫn luôn mang theo bên người, trong đó có một bản sơ đồ vẽ bố cục Hộ quốc đại Phật tự. Chỉ cần tìm thấy một Phật đường hay gian điện nào đó trong chùa, rồi đối chiếu với bản đồ là có thể tìm ra gian chính điện. Tượng phật nằm và bức tượng nghìn tay nghìn mắt đều trong gian chính điện. Ông phấn tích, phía sau quán trọ có những mô đất cao hơn những mô đất khác, nếu không nhầm thì đó chính là Phật pháp của ngôi chùa, nếu vậy thì phía bên dưới nền đất của quán trọ này chính là gian chính điện. Dương Phương nói: “Chuyện này chẳng phải dễ như trở bàn tay sao, chỉ cần tìm đúng vị trí, ngày mai cứ đào từ đây xuống, nhiều lắm cũng một hai ngày là xong.” Ông chủ Triệu nói: “Chuyện không đơn giản như vậy. Có một điều mà tôi phải đợi đến đây mới nói với mọi người được. Thời Bắc Tống khi xây dựng ngôi chùa bên dòng sông, có một truyền thuyết rất đáng sợ, mọi người có tin rằng… bức tượng Phật nghìn tay nghìn mắt là để trấn áp thủy quái dưới sông Hoàng Hà không?” 8 Dương Phương nghe ra đằng sau chuyện này còn có sự việc khác, liền hỏi: “Ông chủ Triệu nói tượng Phật của chùa Đại Hộ Quốc trấn… thủy quái? Chuyện là thế nào?” Ông chủ Triệu nói: “Đó là lời đồn từ rất nhiều năm trước, tôi chỉ lo nếu di chuyển bức tượng Phật sẽ dẫn dến tai nạn không thể lường trước được.” Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Chú không cần lo lắng, những ghi chép dã sử đó làm sao mà thật được.” Ông chỉ Triệu cũng mong đó chỉ là do ông quá lo lắng, nói chung chờ tới khi nhìn thấy bức tượng phật nghìn tay nghìn mắt đ