bay ngang qua, đầm cỏ lại nổi gió, những cơn gió lạnh buốt kèm theo mưa, thời tiết lại đột ngột chuyển xấu. Chúng tôi ăn vội mấy miếng lương khô rồi thẳng tiến về phía Lão Câu, tới chân núi Kháng Diên chúng tôi nhìn thấy ngọn núi thấp, mà thực ra cũng không thể gọi là núi, cùng lắm là một quả đồi, trên núi có khe nứt chạy theo hướng đông tây, trên hẹp dưới rộng, sâu khoảng mười mấy mét, hơi lạnh bốc lên gai cả người, nước mưa chạy dọc theo sườn núi xuống tận đáy. Nhị lão đạo bật đèn pin lên, dẫn đầu nhóm, đi dọc xuống khe núi theo sườn đất. Trên đường đi, tôi phát hiện, trên vách núi có nhiều hoa văn giống hình cá tầm bốn chân, đầu to đuôi nhỏ. Lời đồn bích họa ăn thịt người có khi chỉ là những dấu tích này, niên đại của nó còn lâu đời hơn mộ cổ Khiết Đan. Trương Cự Oa cố mở to mắt hết cỡ nhìn những hoa văn trên vách núi: “Trông thế nào cũng không giống quái vật ăn thịt người”. Nói rồi cậu ta định sờ vào những họa tiết đó. Tôi giữ lấy tay Trương Cự Oa: “Nếu là tôi, thì tôi sẽ không động vào nó, tục ngữ có câu “Không có lửa làm sao có khói”, lời đồn bích họa trong Lão Câu ăn thịt người không phải tự mọc ra đâu.” 3 Nhị lão đạo nói với Trương Cự Oa: “Lão huynh đệ nói không sai, kiếm cơm bằng nghề này chúng ta phải hết sức cẩn thận.” Trương Cự Oa trả lời: “Vâng, em xin nghe anh và đạo trưởng.” Sách Ni Nhi cũng hiếu kỳ hỏi tôi: “Anh nghĩ dưới khe núi đó vẽ những hình gì?” Tôi nói: “Có thể là rắn hoặc rồng gì đó, cũng có thể là hóa thạch. Niên đại lâu quá rồi tôi cũng không nhìn rõ.” Ở Nội Mông có tục thờ rắn, rồng, vùng thảo nguyên thờ sói, vùng rừng rậm thờ gấu, có hang động thì thờ rắn v.v… nhưng những dấu tích ở Lão Câu này đơn thuần là dấu tích tự nhiên, có thể không phải do con người tạo ra. Vết tích trên vách núi có niên đại lâu đời hơn bích họa trong mộ Khiết Đan. Năm xưa, những người đi đào vàng mạo hiểm vào đây, rồi đồn nhau bích họa trong này ăn thịt người có thể là do nhìn thấy những hình thù trên vách núi, không liên quan tới ngôi mộ cổ chúng tôi đang tìm. Chúng tôi thận trọng di chuyển cẩn thận trong khe núi, không có dấu vết của con người cũng không có dấu vết của động vật, dưới khe núi vừa ẩm vừa lạnh, toát ra một mùi hôi tanh ẩm thấp. Nhị lão đạo lôi la bàn ra tìm phương hướng, đi phía trước dẫn đường, lúc rẽ hướng đông lúc rẽ hướng tây. Núi Khang Diên có địa thế hai bên cao ở giữa thấp, phía bắc cao hơn phía nam. Vị trí hầm mộ nằm tại phần trũng xuống, đường hầm thông vào mộ chính là chỗ khe núi. Phía dưới khe núi toàn nhũ đá bị gãy, cho dù có tìm thấy đường hầm thì dựa vào mấy người chúng tôi thì chưa chắc đã đào nổi. Mấy trò phép thuật của Nhị lão đạo tuy chẳng ra sao, nhưng bản lĩnh tìm huyệt mộ thì không phải vừa. Nhận thấy lớp đá rất cứng, khó có thể di chuyển được, lão liền ra khỏi khe leo hẳn lên trên núi Khang Diên, trên tay vẫn cầm la bàn đi tới đi lui, qua trái phải, sang đông sang tây, tìm một lúc thì đi xuống sườn núi. Lão chỉ vào một đám bùn lầy mọc đầy cỏ dại phía bên ngoài khe núi: “Ngắm chuẩn rồi! Đào chỗ này chắc chắn sẽ thông tới đường hầm.” Trương Cự Oa nhận được lệnh liền lôi xẻng cán ngắn ra phát cho tôi và Sách Ni Nhi mỗi người một chiếc. Dưới sự hướng dẫn của Nhị lão đạo, chúng tôi bắt đầu đào từ đám bùn lầy đó. Mặc dù đất bùn lầy dễ đào nhưng vì khe núi hẹp tay chân không thể cử động thoải mái được, nên tới nửa đêm, chúng tôi mới đào tới đáy, bên dưới lộ ra những viên gạch dài màu đỏ đun, dùng đất sét đỏ khớp rãnh, ba người chúng tôi cạy vài viên gạch lên thì đã mệt bở hơi tai, bên dưới là một đường hầm chỉ vừa một người đi. Tôi nhìn thấy Nhị lão đạo tránh đi vào cửa chính của ngôi mộ mà đào từ phía trên đỉnh đường hầm xuống. Vì bị ngâm trong nước nhiều năm, nên kết cấu giữa những viên gạch đã có phần lỏng lẻo, chúng tôi không khỏi khâm phục đôi mắt gian xảo của Nhị lão đạo, trông thế mà chuẩn. Nhị lão đạo cố nén lòng tham, lão giải thích vì hầm mộ bị bịt kín nhiều năm, bên trong có nhiều âm khí, không thể vào bên trong ngay được, hơn nữa bây giờ trời cũng tối rồi, mọi người ai nấy đều mệt, nghỉ ngơi chút đã, cuối đường hầm còn một lần cửa nữa, ngày mai vẫn còn việc để làm. Đêm hôm đó trời mưa không ngớt, Trương Cự Oa hỏi chúng tôi: “Mọi người có tin lúc đào trộm mộ mà gặp trời mưa nghĩa là ma đang khóc không?” Sách Ni Nhi nhát gan, hay tin vào mấy câu chuyện mê tín dị đoan kiểu này, nghe Trương Cự Oa hỏi vậy mặt cô đã tái mét. Tôi nói với Sách Ni Nhi: “Không có chuyện đó đâu, người chết bị chôn trong mộ giữa chốn hoang vu không có ai làm bạn, lạnh lẽo bao nhiêu năm như vậy, giờ khó khăn lắm mới có người đến thăm, vui mừng còn không hết, sao mà phải khóc.” Nhị lão đạo nói: “Đúng là lão huynh đệ không tin tà ma, lão đạo tôi sớm nhận ra cậu không phải người tầm thường, hơn hẳn thằng đồ đệ của tôi chỉ biết mỗi việc khiêng đồ. Tôi thấy cô hồn dã quỷ có đáng sợ đến mấy cũng không đáng sợ bằng nghèo đói, tôi bị cái nghèo hành cho phát sợ rồi. Đợi mẻ này thành công đủ cho nửa đời còn lại ăn chơi phè phỡn, các cậu chỉ cần nghĩ như vậy thôi là cứng gan lại ngay.” Chúng tôi uống nước lạnh, ăn lương khô, nghe Nhị lão đạo nói đến đó thì hai mắt díp lại không thể chống lên được nữa, đêm hôm nay đúng là quá mệt. Bốn người thay nhau gác cửa đường hầm tránh không cho nước chảy vào, chịu đói chịu khát tới khi trời sáng. Sáng hôm sau, Nhị lão đạo thắp một ngọn đèn bão giao cho tôi và Trương Cự Oa vào trong thám thính, ông ta còn dặn dò: “Lão huynh đệ phải nhớ kỹ, đèn tắt thì người chết.” 4 Nhị lão đạo nói với tôi, ngôi mộ Khiết Đan này nằm phía dưới một đồi đất to, bên trên mọc đầy cỏ dại, hầm mộ ở ngay dưới đồi đất, lần cửa thứ nhất nằm dưới khe núi Lão Câu, để đảm bảo không ảnh hưởng tới phong thủy nên người xưa đã dùng gạch xây nối giữa hầm mộ và cửa mộ, phía sau cửa mộ còn một lần cửa đá nữa, tường hầm mộ xây bằng đá rất kiên cố, khó mà đào vào trong được. Để vào ngôi mộ cổ này, cách đơn giản nhất chính là đào từ phía trên đường hầm dẫn vào mộ. Nhưng ngôi mộ bị bịt kín nhiều năm, không lưu thông khí, đi vào sâu bên trong sẽ thấy khó thở, nếu ngọn đèn bị tắt chứng tỏ âm khí trong mộ vẫn còn nhiều, phải quay ra ngay, đêm dài lắm mộng, ở trong đó lâu ắt có biến cố, thăm dò rõ tình hình trong mộ, mở cửa mộ lấy đồ xong, phải nhanh chóng quay trở ra ngay. Chúng tôi quấn xà cạp, rồi thòng dây thừng để xuống đường hầm, bên dưới lạnh lẽo vô cùng, nếu hai người đi song song nhau thì hơi chật, đất rất xốp, chạm tay vào tường là từng mảng đất rơi xuống, đường hầm có thể sập bất cứ lúc nào, và chúng tôi sẽ bị chôn sống dưới này bất cứ lúc nào. Đường hầm được xây bằng gạch nung dài, bên trên phủ một lớp bụi dày, trên tường đều khắc bích họa tuy nhiên đoạn hầm này bị sụt lở nghiêm trọng, lại ngâm trong nước lâu năm nên chỉ vài họa tiết còn nhìn thấy được, trong đường hầm vương vãi ít xương cốt, có thể là xương người bị tùy táng, cũng có thể là xương súc vật, chúng đã gãy vụn không thể nhận biết được. Trương Cự Oa tuy to xác nhưng nhát gan, cậu ta theo sát phía sau lưng tôi và hỏi: “Anh à, anh đã đào mộ cổ bao giờ chưa?” Tôi nói: “Hồi ở quê vẫn hay chơi dưới mấy cái huyệt không, còn cá cược với lũ bạn ngủ qua đêm ở bãi tha ma nhưng chỉ là huyệt trống, ngoài mấy con nhện ra thì chẳng có gì dưới đó cả. Mộ cổ như mộ thời Liêu này thì lần đầu tiên đấy, cậu là đồ đệ của Nhị lão đạo mà chưa vào mộ cổ lần nào à?” Trương Cự Oa nói: “Nửa năm nay em theo đạo trưởng cũng đào được mấy cái mộ, nhưng chưa bao giờ đào cái mộ nào to như thế này, chỉ riêng đường hầm thôi mà đã sâu thế vậy rồi, bên trong không biết có gì?” Tôi nghĩ bụng: “Biết rồi còn hỏi, trong mộ cổ ngoài ‘bánh chưng[2'>’ ra còn có gì được nữa? Trước đây nghe Nhị lão đạo nói ngôi mộ này chôn một người con gái Khiết Đan, lúc còn sống nàng không những là người hoàng tộc, xinh đẹp tuyệt trần, mà còn là một nữ thần Saman, thân phận rất đặc biệt.” [2'> Bánh chưng: là tiếng lóng của dân trộm mộ, ám chỉ xác chết trong quan tài. Trương Cự Oa kêu lên: “Chà! Không biết nàng đẹp đến mức nào?” Tôi hỏi cậu ta: “Cậu nghĩ xem, trong số những cô gái cậu đã từng gặp thì ai là xinh nhất?” Trương Cự Oa nói: “Sách Ni Nhi! Tóc dài thướt tha, trông là đã thấy thích rồi. Cả đời em chưa bao giờ thấy cô gái nào xinh như vậy cả.” Tôi nói: “Sách Ni Nhi đúng là rất xinh, nếu sinh vào thời Thanh thì cô ấy cũng có thể là Cách Cách đấy, nhưng so với cô gái Khiết Đan này thì khí chất có khi không bằng vì Sách Ni Nhi lớn lên trong gia đình săn bắn, tính khí nhiều lúc còn cương hơn cả đám đàn ông.” Trương Cự Oa nói: “Dù sao cô gái Khiết Đan kia cũng chết rồi, người chết thì không sánh được với người còn sống.” Tôi nói: “Biết đâu chết nhưng không bị phân hủy, mở nắp quan tài ra thấy vẫn như còn sống…” Trương Cự Oa nói: “Thế thì thành cương thi rồi còn đâu. Anh đừng nói nữa, em yếu bóng vía lắm.” Tôi nói: “Mà bọn mình nói đến đâu rồi nhỉ! Cậu đừng nói chuyện này với Sách Ni Nhi nhé, nếu không cô ấy không tha cho tôi đâu.” Trương Cự Oa nói: “Đánh yêu mắng yêu thôi. Cô ấy để ý đến anh mới làm vậy, con gái ở vùng bọn em toàn thế thôi.” Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện cho bớt sợ, đi tới tận cùng của đường hầm, theo ánh sáng ngọn đèn chúng tôi nhìn thấy một lần cửa bằng gỗ, mỗi bên cánh cửa có dãy đinh tán bằng đồng mạ vàng. Ở giữa có một chiếc khóa lớn đã hoen rỉ. Lớp cửa mộ đầu tiên dưới lòng núi Khang Diên là một cánh cửa đá, trong đường hầm có một khối đá to đùng để chặn kẻ xâm phạm, không có lừa ngựa kéo thì đừng mơ tưởng đến chuyện mở ra, nhưng lớp cửa thứ hai chỉ làm bằng gỗ nẹp đồng, lại bị hoen rỉ mục nát, nên về cơ bản là không chặn được ai. Trương Cự Oa rút từng cái đinh trên tấm cửa, rồi đục xuyên qua, bên trong toàn cát, đào hết lớp cát lại là than cốc. Đây là lớp chống ẩm trong mộ cổ, may mà không dày lắm, phía sau lớp đất cát đó lại là một lần cửa nữa. Tôi và Trương Cự Oa toàn thân nhễ nhại mồ hôi và lấm lem đất cát, nghĩ tới chuyện phía trước chính là địa cung, tự nhiên tôi lại thấy căng thẳng. Khi chúng tôi chuẩn bị cạy lớp cửa thứ ba, thì thấy Sách Ni Nhi đi vào, tôi hỏi: “Sao em lại vào đây? Không sợ xác chết Khiết Đan à?” Sách Ni Nhi nói: “Hai người vào lâu quá mà không thấy động tĩnh gì, em lo xảy ra chuyện, sao vẫn chưa xong?” Tôi nói: “Sắp xong rồi, còn một lần cửa nữa, cạy xong lớp cửa này, bên trong chính là địa cung…” Nói xong thì Trương Cự Oa cũng đã đẩy bật được cánh cửa, địa cung chẳng qua cũng là huyệt đạo trong lòng đất, đúng lúc Trương Cự Oa đẩy bật cánh cửa, một luồng gió đen từ bên trong phụt ra khiến mọi người nghẹt thở. Tôi và Trương Cự Oa mới nhắc đến chuyện hình dạng cô gái người Khiết Đan nên rất hiếu kỳ, mọi người bất giác cầm đèn lên, đi vào bên trong xem xét tình hình. Bất thình lình, từ bên trong hầm mộ tối đen xông ra một con quái vật hình thù kỳ dị, toàn thân mọc đầy lông trắng toát, hai mắt sáng rực, răng nanh nhọn hoắt. 5 Ngọn đèn bão lung lay trước cơn gió âm từ trong hầm mộ thổi ra lúc tỏ lúc mờ, cùng lúc đó một con quái vật chưa ai nhìn thấy bao giờ, lông trắng mắt vàng, há to cái miệng đỏ au như máu xông ra. Ba người chúng tôi hồn bay phách lạc, tóc trên đầu dựng ngược hết cả lên, chôn chân trong đường hầm chật hẹp không biết chạy trốn đi đâu, chỉ biết giương mắt nhìn con quái vật đang lao tới. Tôi kinh hoàng vơ vội chiếc cuốc chim ném về phía con quái vật, chỉ thấy như ném vào không khí, chiếc cuốc va vào lớp tường gạch phát ra tiếng kêu chát chúa, vì ném mạnh quá nên lưỡi cuốc đã bị nứt, còn con quái vật lao về phía chúng tôi như một cơn lốc khiến mọi người không thể thở được, khi nhìn lại thì trước mắt bỗng không thấy gì hết. Chúng tôi thất kinh hồn vía, thở không ra hơi, vội vã quay ra theo đường cũ. Trương Cự Oa kể lại hình ảnh kinh hãi vừa rồi cho Nhị lão đạo nghe. Cả ba người đều nhìn thấy, không thể nhìn nhầm được, nếu tiếp tục đi vào bên trong chắc chắn sẽ bị con quái vật canh mộ đó ăn tươi nuốt sống. Nhị lão đạo kiếm cơm bằng nghề đổ đấu, kinh nghiệm cũng rất phong phú, nghe Trương Cự Oa tả lại như vậy thì biết ngay đó không phải ác thú. Ngôi mộ cổ này đã hàng nghìn năm không lưu thông không khí, những bức tranh vẽ trên tường màu sắc vẫn sặc sỡ giống như vừa được vẽ xong, đúng thời khắc mở cửa mộ, âm khí trong mộ sẽ tràn ra ngoài, màu sắc trên những bức tranh cũng theo cơn gió đó mà bị bay ra bên ngoài một phần nào. Mắt thường nhìn thấy hình ảnh quái thú chẳng qua là màu sắc của những bức bích họa bị thổi ra ngoài. Thời xưa mê tín, cứ nghĩ rằng đó là hồn ma bóng quỷ. Nếu gặp phải những trận gió như vậy, nhẹ thì sợ tới hồn bay phách lạc, nặng thì chết ngay tại chỗ. Thực ra điều này cho thấy ngôi mộ đã được bảo tồn nguyên vẹn. Tôi nhớ lão Nghĩa mù cũng từng nói với tôi chuyện này, Nhị lão đạo không nói dối, nhưng Trương Cự Oa thì nói thế nào cũng không chịu vào mộ lần nữa. Nhị lão đạo quát: “Đồ vô dụng! Suốt ngày không biết làm gì, chỉ muốn ngồi không ăn sẵn, cũng không nghĩ lại xem trên mộ tổ nhà mày có mọc ngọn cỏ dại nào không? Nhát gan không làm được tướng quân, sợ chết không phải là đại trượng phu, mày có muốn kiếm tiền xây nhà, cưới vợ không hà?”. Nhị lão đạo biết tỏng gan ruột của Trương Cự Oa, nói một hồi như vậy, cậu ta lại bị thuyết phục. Trương Cự Oa ôm mộng làm giàu, nghe Nhị lão đạo nói vậy, cậu ta lại liều ôm cuốc cầm đèn quyết tâm vào mộ cổ tìm báu vật. Nhị lão đạo quay lại nói với tôi: “Lão huynh đệ, thằng đồ đệ của tôi chẳng được tích sự gì, đành phải nhờ cả vào cậu. Cậu cũng biết từ cổ tới nay có ba giáo phái: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. Nho giáo thì bình thường, Phật giáo thanh đạm khổ cực, duy có Đạo giáo là trường sinh bất lão, biến hóa vô cùng và lanh lợi nhất. Đi tới đâu cũng khiến mọi người phải ngước mắt nhìn. Thuật trường sinh bất lão tuy khó luyện thành nhưng sư phụ tôi cùng các đạo nhân đều dựa vào xem bói xem tướng, xem phong thủy để kiếm sống. Tuy chưa đến mức giàu có nhưng không tới nỗi chết đói. Có điều tới đời chúng tôi gặp lúc đất nước giải phóng, nhà nước chủ trương đẩy lùi tệ nạn mê tín dị đoan. Bát cơm từ nhiều đời tổ tiên để lại, đến đời tôi thì không bị đạp đổ, tôi chẳng biết làm gì khác, không đi đào trộm mộ thì biết làm gì? Ngày trước tôi hút thuốc phiện, giờ thì thành đồ bỏ đi rồi, không thể chịu được cái lạnh dưới hầm mộ, nên đành nhờ vào cậu hướng dẫn đồ đệ tôi vào mộ, nhờ cậu trong nom nó với.” Tôi nghĩ trong bụng: “Lão cáo già này khéo sai bảo người khác, tự thân mình không vào mộ cổ, mấy việc nặng nhọc khó khăn này đều đùn hết cho mình và Trương Cự Oa”. Nhưng tôi là người ưa nhẹ chứ không ưa nặng, thời buổi đó lại đang tuổi thanh niên hiếu thắng, biết là việc khó cũng không muốn kiếm cớ thoái thác. Tôi nghe theo sự sắp xếp của Nhị lão đạo, bảo Trương Cự Oa mang túi da rắn, đeo găng tay, dây thừng, đèn pin, đèn bão và rìu. Lúc này đã quá ngọ, chắc dưới hầm mộ đã có chút không khí tràn vào, tôi và Trương Cự Oa đeo khẩu trang chuẩn bị đi xuống, Sách Ni Nhi vác theo khẩu súng săn đòi đi theo vào hầm mộ, một phần cô lo tôi xảy ra chuyện, một phần cũng do hiếu kỳ, càng sợ càng muốn đi, nói cho cùng cô vẫn là kẻ to gan, vác theo súng săn tuy không dọa được người chết, nhưng cũng đủ để người sống thêm phần vững dạ. Tôi không muốn để Sách Ni Nhi xuống mộ, tuy tôi không tin âm hồn người chết vẫn còn trong mộ, nhưng những hiểm họa như cát rơi đá đổ thì luôn rình rập, thời gian lưu thông không khí cũng chưa lâu, chưa biết chừng xuống đó lại chết ngạt, đường hầm thì có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Nhưng Sách Ni Nhi một mực đòi theo, tôi đành phải để cô đi theo và bắt phải đi sát phía sau tôi, không được đi lên phía trước. Lần này trước khi xuống đường hầm, Nhị lão đạo đưa cho tôi một cây hương, dặn kỹ chúng tôi phải hành động nhanh chóng, trước khi que hương cháy hết phải trở lại mặt đất. Tôi hỏi lại tại sao phải vậy, thì lão ta chỉ ậm ừ trả lời rằng ở dưới lâu sợ xảy ra biến cố. Trương Cự Oa cầm rìu và đèn bão đi trước, tôi cùng Sách Ni Nhi cầm đèn pin đi sau, ba người thả dây thừng xuống đường hầm, lần mò vào tới cửa mộ theo đường cũ. Hầm mộ được đào bên dưới đồi đất, chia thành tiền, trung, hậu ba gian mộ thất. Tiền thất nhỏ hẹp, chỉ cách cửa mộ khoảng năm bước chân, trên bức tường đối diện cửa mộ vẽ hình một con mãnh hổ đang nhe nanh giương vuốt, đây là linh thú trấn mộ tránh tà, phần lớn màu sắc đã bị bay mất khi mở cửa mộ, bức tranh giờ có mày tối sậm nhưng vẫn nhìn rõ hình ảnh con vật gầm gừ hung dữ. Những bức bích họa phía trong bay màu không nghiêm trọng lắm, chúng tôi quét đèn pin một lượt, chỉ thấy màu tranh vẫn tươi tắn như mới, trên đó vẽ người, vật, hoa cỏ, cung điện, núi non, còn có quần thần ca hát tiệc tùng, nét vẽ điêu luyện, có phong cách của hội họa đời Đường. Ở giữa nơi này, tôi thấy mình như đi lạc vào một phòng tranh nghìn năm tuổi. 6 Diện tích tiền thất không lớn nhưng rộng hơn nhiều so với đường hầm. Bốn bề đều được xây bằng gạch. Mới bước vào trong, ánh sáng chiếc đèn bão đã giảm đi, đèn pin cũng không chiếu sáng được xa, mùi ẩm mốc vẫn nồng nặc kèm thêm mùi tanh khó chịu của đất. Chúng tôi sợ bị ngạt nên không dám đi quá nhanh. Vừa đi vào, chúng tôi đã nhìn thấy bức bích họa ác thú gác cổng, hai bên và phía trên đầu có họa tiết hạc tiên và mây vờn, hai bên có bốn tượng đất quay mặt vào nhau trong tư thế nửa quỳ nửa ngồi, xem ra đây là hình ảnh của lính thị vệ, người nào người nấy mắt to mày rậm, tóc dài ngang vai, trên mình mặc áo dài cổ tròn có hoa, chân đi hài, thắt dây lưng, tay cầm búa dài. Họa tiết hoa trên áo, trên búa và hài đều được dát vàng. Thấy Trương Cự Oa đang cạo lớp vàng bên ngoài, tôi liền nói: “Nhị lão đạo dặn rồi, lấy năm món bảo vật ở hậu thất là được, đồ tùy táng ở ngôi mộ này quá nhiều, đến vàng dát mà cậu cũng lấy thì cạy ba ngày ba đêm cũng không hết đâu.” Trương Cự Oa tuy hoa hết cả mắt nhưng vẫn gật đầu nói: “Vâng, em nghe anh. Anh này, mấy ông tượng gốm này sao không cầm dao quăm mà lại cầm vũ khí hao hao giống búa thế nhỉ, liệu có dùng được không?” Tôi nói: “Cậu thì biết gì, không phải búa, mà là kim trảo, trước ngự giá không được dùng đao, nên chỉ có thể dùng kim trảo, Hoàng thượng thấy ai chướng mắt liền lệnh cho thị vệ lôi ra ngoài điện dùng kim trảo “kích đỉnh”, có nghĩa là đè phạm nhân xuống dưới đất, dùng búa dài này gõ mạnh vào đầu, như là bổ dưa hấu ấy.” Trương Cự Oa nói: “Anh giỏi thật đấy, chuyện này mà cũng biết.” Sách Ni Nhi nói: “Hình như em có nghe ông nội nói, cái này gọi là cốt đóa…” Thực ra thì Sách Ni Nhi nói không sai, vũ khí mà võ sỹ trong mộ Liêu cầm chính là cốt đóa. Từ rất lâu rồi, nó là binh khí của người Khiết Đan, cũng là binh khí của đội quân tự vệ. Lúc đó tôi cũng không biết nó là binh khí gì, chỉ tiện mồm nói vậy thôi. Tôi giải thích với Sách Ni Nhi rằng cốt đóa và kim trảo không khác gì nhau, chỉ là cách gọi của Quan Nội và Quan Ngoại không giống nhau mà thôi. Trung thất là một hầm mộ xây dựng theo thuyết trời tròn đất vuông trần vòm, diện tích bằng bốn gian nhà dân, tường cao khoảng ba bốn mét, đèn pin không thể chiếu sáng đến điểm tận cùng, hai bên mỗi bên có một gian nhĩ thất[3'>, góc tường là những chiếc cột xây bằng gạch, trên tường vẽ những bức tranh đen trắng và tranh màu trên nền đỏ, trên trần mộ và bốn phía xung quanh bức tường là một bức tranh hoàn chỉnh, màu sắc vẫn còn tươi tắn, hình ảnh sinh động như thật. [3'> Nhĩ thất: là gian phòng nhỏ nằm ở hai cạnh gian chính. Trần mộ tô màu xanh lam điểm xuyết những ngôi sao màu trắng, phía đông nam vẽ vầng mặt trời đỏ au, bên trong có con chim vàng ba chân, phía tây nam vẽ vầng trăng sáng vằng vặc, trong cung trăng có cây đa và thỏ ngọc, không gian thăm thẳm, trời thăng trăng giáng, toàn cảnh bức tranh khiến người ta có cảm giác như thỏ đang chạy, chim đang bay, thời gian đang trôi chảy như ánh sáng, và cuộc sống đang được hồi sinh. Tôi ngẩng đầu nhìn trần ngôi mộ cổ nghìn năm tuổi, vừa xem tim vừa đập thình thịch, Sách Ni Nhi và Trương Cự Oa cũng tròn mắt kinh ngạc đứng. Tôi nghĩ thầm: “Cô gái Khiết Đan này cũng biết hưởng thụ thật đấy, chết rồi mà vẫn còn được ngắm những bức tranh đẹp như trong truyện cổ tích thế này”. Vừa nghĩ, tôi vừa lia ánh đèn pin sang phía bức tường, tiền gần lại xem thì thấy những bức bích họa trong ngôi mộ cổ này được sắp xếp theo lớp lang, miêu tả lại cuộc sống của chủ nhân khi còn sống, những buổi ca hát tiệc tùng trong hoàng cung, những bu