ợ núi còn gọi là chợ ma, không phải kiểu chợ âm phủ như dưới xuôi mình. Ở vùng Thiên Tân và Bắc Kinh có một loại chợ canh tư họp, canh năm tan, bày hàng ở chợ đều là đồ không có nguồn gốc, lai lịch bất minh, hai bên mua và bán đều thậm thà thậm thụt giấu giấu giếm giếm. Còn chợ ma trên núi là ám chỉ việc ông đi vào nơi thâm sơn cùng cốc không một bóng người nhưng lại gặp tường thành, nhà cửa, phố xá, miếu tự, cung điện, bảo tháp, hàng quán, người dân đi lại tấp nập rộn ràng, nhìn thấy rõ mồn một ngay trước mắt, nhưng chỉ cần một trận gió thổi qua thì mọi thứ trở nên mờ nhạt, phút chốc đều bị gió thổi bay hết hóa thành mây khói, người đi lạc thì đứng đần người ra ko hiểu chuyện gì, đó chính là chợ ma, nếu lúc đó mà bước vào trong thì chỉ có nước tan biến cùng cái chợ đó luôn.” Mặt dày nói: “Hóa ra là vậy, hồi ở núi Kỳ Liên tôi cũng gặp hiện tượng này rồi, nhìn thấy mà không sờ được, nhưng khác hẳn với lần này của tụi mình.” Tôi chỉ tiện mồm nói vậy không ngờ Mặt dày nói là đã gặp chuyện này trên núi Kỳ Liên, tôi tò mò hỏi anh ta sự thể ra sao, hai người nói qua nói lại một chập cũng chẳng rút ra được điều gì, chỉ tổ sốt ruột hão. Tôi giao cho Mặt dày đứng dưới canh chừng động tĩnh, còn mình leo lên trên lưng bí hí xem Điền Mộ Thanh có đọc được gì không. Điền Mộ Thanh đọc tấm bia từ nãy tới giờ cũng chỉ hiểu được một nửa, cô chắt lọc nội dung quan trọng đọc cho tôi nghe. Mặt dày ở dưới cũng đang chăm chú lắng nghe. Không ngờ nội dung trên tấm bia này lại ly kỳ như vậy. Điền Mộ Thanh giải thích tấm bia ghi chép rất nhiều sự kiện. Na quốc là một vương quốc cổ khởi nguồn từ thời Tây Chu, sùng bái quỷ thần, bị diệt vong vào thời hậu Xuân Thu chiến quốc. Những người dân còn sống sót lánh nạn vào trong rừng sâu, dần dần phát triển thành Na giáo, thủ lĩnh gọi là Na vương. Tới thời Tây Hán, từ Hoàng đế vương hầu cho tới người dân đều thịnh hành phong tục tế thần đuổi quỷ. Tôi nghe đến đoạn này thì cũng không khác là mấy với những gì Điếu bát kể, nhưng nội dung tiếp theo là những chuyện mà anh ta không hề biết. Điền Mộ Thanh đọc tiếp: “Việc Tầm Na diệt trừ yêu ma quỷ quái được phân thành Cung Na, Thôn Na, Sơn Na, Thủy Na, Động Na. Từ Na có nghĩa trói buộc, từ cái tên đã thấy được ý nghĩa bắt ma bắt quỷ để chúng không còn tác oai tác quái được nữa. Sau đó, Na giáo lợi dụng việc quỷ thần để kêu gọi người dân làm phản, tới thời Đông Hán thì bị triều đình trấn áp, Na giáo kéo nhau vào rừng sâu núi thẳm lánh nạn, rồi ở lại đó không còn giao lưu với bên ngoài. Lâu dần không còn liên quan gì tới phong tục Tầm Na vẫn được lưu truyền trong dân gian nữa. Ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế được xây dựng ở đây còn ẩn chứa một bí mật rất lớn. Tương truyền, mỗi lần trên bầu trời xuất hiện thiên cẩu ăn mặt trăng, chính là lúc âm khí trên mặt đất nặng nề nhất, người dân trong làng sẽ tổ chức lễ Tầm Na tế quỷ. Họ ném ác quỷ đã bị tước hết pháp thuật xuống hố tế lễ nhằm diệt trừ tận gốc mầm họa và khiến ác quỷ vạn kiếp không thể siêu sinh. Hố tế lễ chính là cánh cửa thông tới “Đất quỷ”.” 3 Từ xưa, trong Na giáo đã rất phân biệt đẳng cấp, theo thứ tự bậc cao tới thấp là Na thần, Na vương, Na tướng, Na sỹ, Na dân. Hầu như không ai biết “Đất quỷ” là nơi nào, thường ngày cũng không cho phép người dân nhắc tới điều này, chỉ biết từ rất xưa rồi có một vương quốc tên là Đất quỷ. Thời Tùy, Tùy Dương hoàng đế vô đạo, lê dân trăm họ chịu muôn vàn khổ cực. Tùy Dương hoàng đế tin vào đạo tiên, đã cho người xây dựng một gian bảo điện nóc vàng bên bờ sông Hoàng Hà với ý đồ thỉnh mời tiên nhân xuống gặp mặt. Tiên đâu chẳng thấy, chỉ thấy Hoàng Hà mấy năm sau đó dịch bệnh liên miên, thiên tai không ngớt, người dân đồn nhau có ma hoàng hoành hành, triều đình mời Na giáo tới bắt ma trừ tà. Na vương khi đó nghe nói ma hoàng đang gây họa thì cũng không thể nhắm mắt làm ngơ, lệnh cho Na tướng Phùng Dị Nhân tới bờ sông Hoàng Hà để bắt ma. Phùng Dị Nhân từ lúc sinh ra đã to lớn hơn người, thân hình vạm vỡ, chân dài tay dài nên mới có tên gọi là Dị Nhân. Anh ta đào được một cỗ quan tài gần ngôi điện mái vàng, bên trong là một con ma hoàng do người chết hóa thành, toàn thân mọc đầy lông trắng, máu thịt của nó có thể lây truyền dịch bệnh, Na vương chuẩn bị mổ bụng rút ruột trừ tà, bỗng trời đất tối sầm, nước sông Hoàng Hà dâng cao, có người nhìn thấy một con cá khổng lồ đã nuốt chửng ma hoàng, cả gian điện mái vàng đều bị lún chìm xuống hố cát vì nước sông tràn vào, ngôi điện từ đó không còn nhìn thấy ánh mặt trời. Tôi nghe Điền Mộ Thanh đọc tới đây thì nghĩ, đó chính là nơi mà lão Nghĩa mù nói tới. Năm xưa khi Đả thần tiên Dương Phương cùng Thống lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ rơi vào động cát, bản lĩnh như Thôi lão đạo cũng không biết lai lịch của con cá và ngôi điện đó, giờ chuyện cũ tan như mây khói, người thì đã hóa thành cát bụi từ lâu, tôi có biết thì cũng đâu có tác dụng gì. Mất tập trung một lúc khiến tôi bỏ lỡ mất một đoạn, nghe Điền Mộ Thanh kể tiếp đoạn sau. Dị Nhân đại nạn không chết, đã thoát ra được từ cơn nước lũ, một mình quay lại núi Hùng Nhĩ ở Dự Tây. Ngờ đâu, sau cơn hồng thủy, trong vòng bán kính một trăm cây số không một bóng người, đừng nói tới lương thực, ngay cả rễ cây, vỏ cây cũng không đào đâu ra. Đành chịu đói đi một đoạn đường dài, chuyện kể cũng thật trùng hợp, đang đi bỗng anh ta nhìn thấy một cục thịt to nằm chình ình giữa đường, cục thịt hình tròn dài trắng nõn, chạm vào hình như nó còn động đậy. Anh ta cũng không biết đó là thứ gì, cứ nghĩ là thịt Tê hay Thái Tuế gì đó, vì lúc đó đã đói mờ mắt rồi nên đừng nói đó là thịt gì, cho dù là thịt người thì cũng dám ăn, nên lúc đó đã ăn luôn cục thịt giữa đường này. Phùng Dị Nhân sống sót trở về, cũng không nói gì với dân làng về việc kia, cũng không ai phát hiện ra điều gì khác thường. Nhưng Na vương đã thay hết đời này sang đời khác, người dân trong làng có người chết, có trẻ em mới sinh ra, duy có anh ta là vẫn vậy, mấy chục năm trời qua đi vẫn không già không chết. Trên đời này làm gì có bức tường nào chắn được gió, chuyện rồi cũng vỡ lở, đầu làng cuối xóm đang truyền nhau chuyện Phùng Dị Nhân ăn thịt tiên, nên trường sinh bất lão, sắp đắc đạo thành tiên rồi. Nhưng từ sau khi trở về làng thì hành tung của anh ta rất lạ, mỗi lần dân làng tổ chức bắt ma thì anh ta trốn biệt, không bao giờ để cho mọi người nhìn thấy phần lưng của mình, trong làng thường xuyên có người bị mất tích. Sau đó các vị trưởng lão của Na giáo phát hiện ra Phùng Dị Nhân năm nọ bên bờ sông Hoàng Hà không phải ăn thịt tiên mà là ăn trứng của loài nhện đất. Loại nhện này chỉ có sáu chân, không nằm trong năm loại côn trùng thường gặp. Không có thứ gì là chúng không cắn nát được, Phùng Dị Nhân ăn phải số trứng đó không biết đã được chôn dưới đất bao nhiêu năm, hút được long khí trong lòng đất và hắc đạo, có linh hồn có ý thức, thân thể bất diệt, được gọi là rồng đất. Nghe nói nó được chôn dưới sông từ khi nước sông Hoàng Hà vẫn còn trong suốt. Mọi người đều biết, nước sông Hoàng Hà đỏ đục phù sa, đã ai từng nhìn thấy nước sông trong suốt bao giờ chưa? Vậy mà nó đã từng thấy, thế cũng đủ biết là lâu đời như thế nào. Rồng đất vốn ưa ngủ, không ngờ bị trận đại hồng thủy hất tung ra bên ngoài, vẫn còn đang nửa mê nửa tỉnh thì đã bị Phùng Dị Nhân nhìn nhầm là thịt rồi chén sạch. Hậu quả là anh ta như trúng phải lời nguyền, mãi không già không chết, đó là bởi nguyên khí của rồng đất đang dần chiếm dụng thân xác của anh ta. Phía sau đầu Phùng Dị Nhân mọc ra một khuôn mặt nữa, miệng rộng tới mang tai. Hút máu ăn thịt người, những người dân trong làng bị mất tích là đều do hắn ăn thịt. Tôi nghe tới đây chợt nhớ tới rồng đất trong Thông Thiên Lĩnh, nhưng hai con vật này hoàn toàn không giống nhau chẳng qua chỉ chung tên gọi mà thôi. Điền Mộ Thanh lại đọc tới đoạn sau của tấm bia. Na vương nhân lúc rồng đất ngủ say đã sai người bắt Phùng Dị Nhân mổ bụng rút ruột, ngờ đâu trong bụng Phùng Dị Nhân lổn nhổn toàn là nhện đất, chúng bò ra ngoài và cắn chết vô số người dân. Oan hồn của rồng đất mãi không siêu thoát được, đã nhập vào thân xác Phùng Dị Nhân tác quái, nơi nào hắn đi qua thì không có người và vật nào có thể sống sót. Dân làng Thiên Cổ Dị Đế không có cách nào đối phó với con yêu quái này, đành phải quỳ lạy nhận lỗi đã làm hỏng thân xác của quân vương, nay xin dùng chiếc áo ngọc và tượng vàng tổ chức hậu táng tại Huyền Sơn cung, những vật báu của Na giáo như vương miện vàng Lộc thủ bộ dao quan, cốc mã não đầu thú, gối âm dương, đai ngọc hoa văn hình rắn và mây, gậy sừng tê giác, gương đồng đúc hình chim thần, thanh Yểm Nhật kiếm của Việt vương… đều được tùy táng trong địa cung. Trong đó vương miện vàng, đai ngọc, gương đồng là đồ của phụ nữ âm khí quá nặng nên kèm theo thanh trượng bằng sừng tê giác, thanh bảo kiếm của Việt vương, gối âm dương, cốc mã não tùy táng cùng. Ngoài ra, Na vương còn cho xây dựng miếu thờ, mỗi năm dùng trâu đen, ngựa bạch, đồng nam đồng nữ cúng tế. Có vậy mới đem được thi thể Phùng Dị Nhân liệm vào quan tài, đặt trong địa cung dành cho các Na vương. Dòng cuối cùng của tấm bia viết “Lập bia tại đây, báo cho con cháu đời sau không được dừng cúng tế, không được vào địa cung. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba”. Mặt dày đang nghe say sưa, thấy Điền Mộ Thanh không đọc nữa liền hỏi: “Thật là ly kỳ, tiếp theo thế nào?” Điền Mộ Thanh nói: “Văn bia chỉ nói tới đó thôi, đoạn sau hết rồi…” Tôi nói: “Cuối cùng cũng biết được gian chính diện trong hầm mộ là ai. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba, vậy là tấm bia được lập thời Đường Thái Tông đang tại vị, đáng lẽ ra nên bắt rồng đất… Tôi có cảm giác Phùng Dị Nhân sau khi ăn phải trứng rồng đất rồi thì chỉ còn cái xác không hồn. Nên sau khi đã nhốt được thi thể của rồng đất vào trong địa cung thì văn bia không ghi chép gì thêm, có điều chuyện này hiển nhiên là chưa kết thúc.” Mặt dày nói: “Sợ là sợ không có kết cục, chẳng phải làm người ta sốt ruột chết.” Tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Na vương chắc chắn là đang chờ đợi cơ hội để đưa âm hồn trong địa cung tới hố tế lễ phía cuối thôn, khiến nó không còn cơ hội quay trở lại, nhưng nửa chừng chắc có sự kiện gì đó, đoạn sau thì tôi không thể đoán được.” 4 Điền Mộ Thanh nói với tôi và Mặt dày, có thể cô biết trong thôn Thiên Cổ Dị Đế sau đó đã xảy ra chuyện gì. Tới lúc này, tôi cũng không còn lạ lẫm và kinh ngạc nữa, trông thấy cô nàng lục lọi tìm tòi trí nhớ, dường như có nhớ lại được chút ít, tôi nói: “Cô đừng vội, nhớ được bao nhiêu thì nhớ.” Điền Mộ Thanh gật đầu, cô hồi tưởng lại một lúc rồi nói: “Rồng đất trúng kế hoãn binh, bị nhốt tới thời Đường Thiên Bảo năm thứ nhất thì gặp năm có thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tổ chức nghi lễ bắt ma, chuẩn bị đưa âm hồn bất tán của rồng đất về Đất quỷ, nhưng nghi lễ động Na tống quỷ rất nguy hiểm, chỉ cần có chút sơ suất thì toàn bộ cả thôn làng đều gặp họa. Đúng là ghét của nào trời trao của đó, con đường thông từ nơi tế lễ đến Đất quỷ chỉ xuất hiện trong thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng. Trước nay làm lễ chưa từng xảy ra chuyện gì, vậy mà lần này lại xảy ra sự cố, cánh cửa thông với Đất quỷ sau khi mở ra lại không đóng vào được, Na vương bất lực đành phải cho tất cả mọi người đeo mặt nạ vào cùng niệm chú cầu khấn thần linh, sau đó…” Tôi và Mặt dày người đứng phía dưới người đứng trên lưng bí hí chăm chú nghe Điền Mộ Thanh kể. Điền Mộ Thanh nói: “Sau đó… chuyện sau đó thế nào… tôi thực sự không thể nhớ nổi nữa…” Mặt dày nói: “Cô sao lại thế chứ, chẳng phải khiến người ta sốt ruột chết mà không cần đền mạng còn gì.” Tôi thắc mắc không biết, trong lúc làm lễ đã xảy ra sự cố ngoài ý muốn gì? Khi cánh cửa thông với Đất quỷ không thể đóng lại được thì Na vương đã cùng dân làng làm gì? Hai điểm này rất quan trọng. Tôi cố gắng suy luận, Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, trong đêm thiên cẩu ăn mặt trăng đó, chính là thời khắc toàn bộ thôn Thiên Cổ Dị Đế chìm xuống lòng hồ, nhưng trên thực tế làng này chẳng hề bị nhấn chìm, vì trong lúc làm lễ đuổi ma thì xảy ra sự cố, không những chẳng đưa được âm hồn rồng đất về nơi Đất quỷ, mà cánh cửa nơi tế lễ cũng không thể nào đóng lại được, trong tình thế bất đắc dĩ ấy, tính mạng của toàn bộ dân làng đã bị cướp đoạt, may mà dùng thôn làng chắn được cửa vào. Bọn tôi và Hoàng phật gia không ngờ đã lạc vào thôn làng vốn đã biến mất từ lâu. Trước đó, khi nghỉ chân tại quán trọ bỏ hoang nơi Thảo Hài Lĩnh, chúng tôi đã từng nhìn thấy xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, có thể năm xưa trong lúc gặp nạn, ba người này cách thôn làng tương đối xa nên đã bị chìm xuống hồ, còn thôn Thiên Cổ Dị Đế và những vùng xung quanh thì đã bị rơi vào Đất quỷ từ năm Đường Thiên Bảo thứ nhất rồi. Đất quỷ có phải ám chỉ âm ti không? Tôi nhớ lại lúc mở quan tài gỗ trầm hương để xác chết nữ, nét mặt bọn Hoàng phật gia rất kinh ngạc, vì sao lại vậy? Xác chết đeo vương miện Lộc thủ bộ dao quan là ai? Tôi cứ có cảm giác xác chết này liên quan tới Điền Mộ Thanh, càng liên quan tới đêm thiên cẩu ăn mặt trăng định mệnh đó. Còn bức bích họa về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế trong mộ Liêu thì chắc chắn là cơn ác mộng gặp oan hồn trong mơ của nữ thần Saman khi còn sống. Nhưng tại sao tôi cũng bị vướng lời nguyền này thì tôi vẫn không lý giải nổi. Tôi đem ý nghĩ đó nói với Điền Mộ Thanh và Mặt dày: “Bọn mình không biết lối nào có thể thoát ra ngoài, chỉ còn cách tìm hiểu xem Thiên Bảo năm thứ nhất của đời Đường đã xảy ra chuyện gì rồi tính tiếp.” Mặt dày lại yên tâm vì không phải lo chiếc vương miện và gương đồng sẽ biến thành bùn đất. Anh ta chỉ lo thôn làng này rộng lớn, tầng tầng lớp lớp vây quanh mộ cổ Huyền Cung Sơn, hàng nghìn hàng vạn nóc nhà, nếu tìm từng căn một thì cũng không đơn giản. Tôi đang định lên tiếng thì bỗng thấy mùi xác chết bốc lên từ phía ngôi làng, cách xa như vậy mà vẫn ngửi thấy. Cả ba chúng tôi đều thất sắc, biết chắc là cương thi trong địa cung đã đi ra ngoài. Tôi nói: “Xác chết của Phùng Dị Nhân đã bị hồn ma của rồng đất nhập vào, nghìn năm trước Na giáo còn không đối phó được với hắn, bọn mình không thể để bị hại, phải tìm chỗ trốn mau.” Mặt dày hỏi: “Trốn vào đâu? Quay về Na miếu à?” Tôi nghĩ cả bọn cứ loay hoay ở đây cũng không phải là cách hay, bức tranh trong Na miếu có vẽ một con đường màu đen, giống như là đường hầm nằm dưới thôn làng. Chúng tôi tìm kiếm xung quanh tấm bia, quả nhiên phát hiện một miệng hầm nằm cách đó không xa, nếu không cố tình đi tìm thì không thể phát hiện được. Đáng tiếc là tôi không chú ý kỹ tấm bản đồ nên không biết đường hầm này thông tới đâu. Tình thế quá khẩn cấp, chẳng thể nghĩ ngợi được nhiều, chúng tôi đốt đuốc đi vào bên trong. Miệng hầm tuy nhỏ hẹp nhưng phía bên trong lại rộng rãi như đường hầm dẫn vào mộ, khắp nơi đầy hài cốt và đao kiếm, có dấu tích của sự giao tranh cho thấy trong làng đã xảy ra một trận chiến rất ác liệt. Địa đạo dưới thôn làng ngoằn ngoèo uốn lượn với nhiều nhánh rẽ nhưng đi vào đều là ngõ cụt. Tôi để ý thấy hoa văn và gạch đá trong địa đạo đều không giống nhau. Những lối đi cụt đều là hoa văn chìm, lối đi thông là hoa văn nổi được khắc trên đá. Chúng tôi nắm bắt được quy luật nên chỉ chọn những ngách có hoa văn nổi để đi, tới một ngã ba, hai bên đều là hoa văn nổi, tôi nhất thời không biết chọn bên nào, chúng tôi rẽ vào ngách hướng tây trước, thì ra hướng đó đi về phía hố tế lễ, nhưng đi được một đoạn thì đường hầm sụt lở rất nghiêm trọng, phía trước đã bị đất đá chặn mất lối đi, nên đành phải quay lại đi sang ngách phía bên phải. Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một phiến đá chắn ngay trước mặt, nhưng có trục xoay, chúng tôi tiến lại đẩy tấm đá ra, phía trong là một gian thạch thất, bốn phía bám đầy bụi bặm, trên tường có vẽ tranh, dưới đất có bộ hài cốt, bên cạnh là mấy chiếc rương gỗ nẹp đồng, vì bên trong lâu ngày không lưu thông không khí nên nồng nặc mùi ẩm mốc, trong này còn có bậc thang bằng đá. Tôi cứ nghĩ đây lại là một hầm mộ nữa, nhưng tôi mau chóng ý thức được bọn tôi đang ở phía dưới ngôi làng. Có thể đây là một gian mật thất ngầm của một căn nhà nào đó trong thôn. Quay đầu nhìn những bức tranh trên tường, bất giác tim tôi đập thình thịch. 5 Mặt dày theo vào, nhìn thấy những bức bích họa đó cũng “Ối!” lên một tiếng, lập tức đặt Điếu bát xuống đất, dài cổ cùng tôi ngắm nghía mấy bức tranh. Bích họa trong này có rất nhiều, xem ra không liên quan gì tới nhau. Tôi nhìn thấy một bức vẽ hoàng đế nhà Hán ban chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan cho một vị Na tướng có thân hình lực lưỡng, mình mang áo giáp, mặt đeo mặt nạ, trên trời là một vầng trăng, bức tranh này rõ ràng là nói lên lai lịch của chiếc vương miện. Trong dân gian truyền rằng, chiếc vương miện là Vị Ương cung dùng mỗi lúc tế thần mặt trăng, hình dạng giống như sừng hươu, mỗi nhánh sừng đều có lá vàng, sau đó chiếc vương miện bị mất tích, không hiểu sao lại xuất hiện ở thôn Thiên Cổ Dị Đế này, xem ra là do hoàng thượng ban tặng. Bức tranh tiếp theo là hình chiếc đai ngọc có hoa văn rắn và mây, là vật báu được ghi chép trên tấm bia Tầm Na, những bảo vật khác như gậy bằng sừng tê giác, gương đồng đúc hình chim thần, thanh bảo kiếm của Việt vương, gối âm dương, mỗi cái đều có một bức tranh riêng. Tôi nói: “Chỗ này chắc là nơi cất giữ báu vật của ngôi làng, mỗi cái đều có lai lịch rõ ràng.” Mặt dày vội mở những chiếc rương ra, bên trong chẳng có gì, liền thắc mắc: “Sao không có gì cả thế này?” Tôi nói: “Những báu vật của thôn Thiên Cổ Dị Đế này chúng ta đều đã nhìn thấy rồi, ngoài chiếc gương đồng ở trong Na miếu thì còn lại đều trong địa cung. Đương nhiên là không thể có mặt ở đây được rồi.” Mặt dày nói: “Vậy cậu xem bức họa của chiếc gương và chiếc đai ngọc đi, sau này còn tiện ra giá.” Tôi xem một hồi lâu, thông qua bức tranh được biết, chiếc đai ngọc do loạn quân đoạt được trong một ngôi mộ của triều đại trước, chiếc đai có khóa, có thể ghép lại hoặc mở ra, khi nối lại thành vòng tròn, có hình chín con rắn cưỡi mây vờn xung quanh, tinh tế khéo léo tới mức khiến người ta nghĩ rằng nó là do quỷ thần tạo ra, xem ra nó cũng không thua kém gì chiếc vương miện vàng. Lúc này, Điếu bát bỗng “ư” lên một tiếng, chúng tôi vội đỡ anh ta ngồi dậy dựa vào một chiếc rương gỗ. Thấy anh ta có chút ý thức, mặt trắng như tờ giấy mệt mỏi há miệng hớp hớp, chắc là do mất máu nhiều nên khát nước đây. Tôi vội lấy nước trong bi đông cho anh ta uống, Điếu bát rên lên: “Ôi giời… Anh vừa nằm mơ mất cả tiền lẫn tình, anh thấy mình rơi vào một hang động, rơi mạnh quá khiến mông anh vỡ làm đôi.” Tôi khuyên Điếu bát đừng nghĩ ngợi linh tinh, mông con người ta vốn là hai nửa mà. Điếu bát nghe thấy giọng nói của tôi, miễn cưỡng mở mắt ra nhìn, hỏi: “Đây là đâu? Về nhà rồi à?” Mặt dày hậm hực: “Nhà đâu mà nhà, ông anh nhắm mắt lại thế là xong chuyện, tôi cõng ông anh đi cả một ngày rồi đấy.” Điếu bát ngạc nhiên đưa mắt nhìn xung quanh, nghiêng đầu thấy bộ xương khô bên cạnh, anh ta sợ quá hai mắt trợn tròn trắng dã, rồi lại lăn đùng ra ngất xỉu. Điếu bát thường ngày lắm chuyện, tôi vẫn bảo anh ta miệng đàn bà, nói liên hồi không cho mồm lên da non, nhưng mối thâm tình của tôi với anh rất sâu nặng, giờ này tuy anh ta lại ngất xỉu nhưng cũng chỉ là do sợ quá, còn đã tỉnh táo hơn, tôi cũng yên tâm phần nào. Có điều Điền Mộ Thanh vừa sợ vừa mệt, cứ để cô ấy nghỉ ngơi, chỉ cần rồng đất không đuổi theo tới đây thì nơi đây vẫn coi là an toàn. Mặt dày định chuyển bộ xương khô ra chỗ khác, người này chết đã hơn nghìn năm, mặc một chiếc áo dài, mặt nạ rơi ngay bên cạnh, sau lưng đeo thanh kiếm đồng. Mặt dày chạm vào bộ xương khô, thanh kiếm rơi xuống sàn nhà phát ra tiếng kêu lạnh lẽo. Tôi cầm lấy thanh kiếm, cảm nhận được trọng lượng của nó trong lòng bàn tay, gọi Điền Mộ Thanh thắp đuốc tới gần, tôi rút thanh kiếm ra khỏi vỏ bao da cá mập, thân kiếm không dài lắm, nhưng không hề hoen rỉ, chi chít những hoa văn lục lăng khắc chìm, cân đối đẹp mắt, còn có hoa văn hình chim và chữ triện, lưỡi kiếm sắc ngọt. Trong quan tài của rồng đất thì có thanh bảo kiếm của Việt Vương, tương truyền đó là một trong tám thanh kiếm của Việt Vương thời Xuân Thu chiến quốc, rơi vào tay người Na giáo và trở thành bảo vật trấn giáo. Còn thanh kiếm chúng tôi tìm thấy đây, mặc dù không thể so sánh được với thanh Yểm Nhật nhưng cũng không phải loại tầm thường. Tôi kiểm tra lại xem còn mấy viên thuốc súng, thanh kiếm đồng này có thể mang t