cánh cửa ra, cần nhân cơ hội này chạy thoát, nhanh chóng tới hố tế lễ, bị nhốt mãi nơi quỷ quái này cũng không phải là cách. Vừa mới hé cửa thì mùi máu hôi tanh lại xộc vào, chúng tôi thất kinh, biết là chiếc đầu kia vẫn còn ở bên ngoài, tôi vội vàng đóng cửa lại, đang chuẩn bị cài then thì nghe đánh “rầm” một tiếng, cánh cửa bị va mạnh từ phía ngoài liền bật mở, cùng lúc đó là tiếng cười rùng rợn vang lên, cái đầu lại hiện ra trong đám sương mù, từ từ tiến vào trong điện, dưới ánh lửa, chúng tôi nhìn thấy cổ của ả ta có màu đỏ bầm như gan lợn, tựa màu thịt đã bị lột đi lớp da bên ngoài. 3 Tôi vội giơ đuốc lên chĩa về phía cái đầu, Mặt dày nhân lúc cái đầu né sang một bên thì nhanh chóng đóng cửa cài then. Toàn bộ phía trong phía ngoài điện Na vương lại một màn im lặng tuyệt đối, chỉ nghe thấy tiếng hơi thở gấp gáp và tiếng tim đập thình thịch của chúng tôi. Mặt dày choáng váng nói: “Cậu nhìn thấy chứ, cổ của ả ta…?” Tôi đương nhiên nhìn thấy, nhưng không biết đó là thứ quỷ quái gì. Cô ả đó thò đầu ra từ trong lớp sương mù, chẳng nhìn thấy thân hình đâu. Nơi này đã bị rơi vào Đất quỷ từ thời Đường, có phải là bọn ma quỷ chui ra từ trong hang động không? Nhưng theo ghi chép trên bia đá, “Na” có nghĩa là trói buộc, cái hang lớn cuối thôn dường như thông với âm ti, Đại La Kim Tiên (người có quả vị tối cao của Tiên Tông) cũng đừng mơ chui ra được, vậy cô ả này là người trong thôn? Tôi nhìn sang phía Điền Mộ Thanh, thấy thần sắc của cô đang hoảng loạn, hiển nhiên là cô không biết sự tình. Tôi thì lo sợ cánh cửa điện lại bị húc bật ra một lần nữa, cũng không cần phải lo nhiều, trước đó tôi cứ nghĩ cánh cửa gỗ của gian điện chỉ là gỗ bình thường, nhưng lúc sờ vào nó mới biết gỗ rất dày và kiên cố, rõ ràng là trước khi sử dụng nó đã được ngâm dầu, không sợ bị nước ngâm hay lửa thiêu, để lâu năm vẫn không mối mọt. Phía bên ngoài vẫn im lặng như tờ, tôi lo ngại có nơi nào đó chưa được ổn thỏa nên cầm đuốc đi xem xét mọi ngóc ngách trong gian điện. Điện Na vương rộng bảy gian, sâu hai gian, tường làm bằng đất sét nện rất kiên cố, sử dụng giằng cột, xà ngang theo lối kiến trúc nhà cổ. Sáu cột chạm đất, phía dưới mái nhà rui gỗ chồng chéo lên nhau, trên cửa điện khắc rỗng hình cánh hoa và thú vật, xà gồ cột và xà dầm đều được cố định bằng mộng, rất khít chặt và vững như bàn thạch. Bố cục của điện Na vương hết sức hợp lý, kết cấu chặt chẽ, chỉ có vài chỗ ở góc mái điện có hiện tượng sụt hỏng, những nơi khác tuy đã nhuốm màu thời gian nhưng vẫn còn rất kiên cố. May nhờ cánh cửa điện chắc chắn, lại được cài then cẩn thận, cái thứ ghê gớm ngoài cửa điện kia trước mắt chưa thể phá cửa vào trong được. Bên ngoài vẫn không có động tĩnh gì, chúng tôi cũng chẳng dám mở cửa lần nữa, định bụng thoát ra ngoài qua đường hầm dưới thôn làng, đường hầm ngầm đó có thể thông tới chỗ bia đá, nhưng sau đó thì phải làm sao nữa? Lúc này, mùi máu tanh lại nồng nặc hơn, mặc dù đã đóng kín cửa điện mà vẫn khiến người ta muốn ói mửa. Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy có tiếng vừa cào vừa đẩy ngoài cửa, cánh cửa điện bị đẩy rung rinh, kêu lên từng hồi cọt kẹt, tiếng móng tay cào vào cửa nghe càng rợn người. Cả ba chúng tôi mặt đều thất sắc, lúc trước chỉ thấy chiếc đầu thò vào trong đám sương mù, xem ra là nó cũng có tay, không lẽ là cương thi? Nghe nói cương thi cũng có nhiều loại khác nhau, vùng Quan Nội đất sâu nước nhiều, người chết chôn trong mộ không những thi thể không phân hủy mà móng tay, tóc còn tiếp tục mọc dài ra, đó là do địa khí tạo thành, nếu gặp loại cương thi như vậy thì sẽ có nạn hạn hán. Ở Quan Nội có phong tục, nếu vùng nào gặp hạn hán đều mời thầy âm dương tới xem mộ phần, nếu thầy chỉ vào ngôi mộ nào thì cho dù đó là mộ nhà ai đều phải quật lên, dùng roi dánh vào thi thể trong quan tài, sau đó đem đi hỏa táng; một loại nữa là oan khí chưa tiêu hết, oan khí chính là phách, lại chết vào năm âm, ngày âm, giờ âm, thì thi thể có thể bò dậy vồ người; có trường hợp thi thể bị ma quỷ dưới đất nhập vào, ví dụ như hồ ly, sói lang v.v…, bọn chúng nhập vào thi thể người chết để dọa người, bắt gia đình phải giết gà mổ vịt cúng tế. Nhưng người đã chết thì da thịt trở nên nhăn nheo khô đét, cho dù là xác chết biết đi thì cũng không thể nào có cảm xúc, âm thanh phát ra trong miệng cũng the thé như tiếng mèo kêu, nhưng như vậy cũng không có gì là ghê gớm, dân đào trộm mộ chỉ cần dùng móng lừa đen hun trên lửa hồ lô là có thể đối phó được. Có điều, trong dân gian còn một cách nói, nếu người chết là con gái, khi còn sống gặp nỗi oan mà chưa thể báo thù được, trước khi chết đã dặn dò lại người nhà khi khâm liệm thì mặc áo đỏ, miệng ngậm một chiếc lược màu đen, để nằm sấp trong quan tài. Những trường hợp như vậy, xác chết không những có thể đi lại được mà còn gọi là âm hồn quay trở về lấy mạng từng người trong gia đình kẻ thù, chỉ có loại cương thi này thì mới biết cười, nhưng nụ cười đó còn khó coi hơn là khóc rất nhiều, ai gặp phải nó thì đừng mong giữ được mạng sống. Trước đó tôi được nghe lão Nghĩa mù kể nhiều về chuyện cương thi, vốn đã quên gần hết, giờ bất chợt đều nhớ lại. Tôi đang nghĩ về điều đáng sợ này thì nghe thấy tiếng cào cửa ở bên ngoài ngày càng dồn dập hơn, chúng tôi không nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài, nhưng nghe âm thanh thì như có hàng trăm cánh tay đang cào cửa, cũng chẳng hiểu là ở đâu ra, cứ như có một con rết trăm chân đang bò trên cửa điện vậy, may mà cánh cửa gỗ tương đối kiên cố, những phần khắc rỗng đều có vật trang trí bằng đồng nên tuy tiếng cào cửa bên ngoài vẫn nổi lên không ngớt nhưng không mở được cửa. Tôi sợ hãi khủng khiếp, bụng nghĩ hảo hán không tính đến cái thiệt trước mắt, giờ không đi thì còn đợi đến lúc nào, nghĩ vậy tôi chuẩn bị gọi Điền Mộ Thanh và Mặt dày chuẩn bị đưa Điếu bát vào trong đường hầm phía dưới điện Na vương để trốn thoát. Ai ngờ cánh cửa điện tuy kiên cố nhưng chúng tôi lại quên béng mất không để ý chiếc then cài, tuy là một thanh gỗ to nhưng lại là loại gỗ bình thường, năm xưa sử dụng có thể không vấn đề gì, nhưng giờ trải qua nhiều năm đã mục. Chúng tôi bỗng nghe thấy rầm một tiếng, chiếc then cài bị gãy làm đôi, rơi xuống nền điện, cánh cửa theo đó cũng bật mở, mùi máu tanh hôi lập tức xộc vào, trong làn sương khói thê lương ảm đạm, chiếc đầu đó vươn vào trong điện về phía chúng tôi, há miệng ra thổi một luồng gió âm. 4 Mùi máu tanh bốc vào trong điện nồng nặc khiến chúng tôi đều buồn nôn, tôi sợ trận gió âm đó thổi tắt ngọn đuốc nên vội tránh sang một bên. Mặt dày luống cuống nhặt khẩu súng săn dưới đất lên, còn chưa kịp chĩa súng về phía chiếc đầu thì nó đã vòng sang bên cạnh anh ta, nhanh đến bất ngờ, giờ cũng chẳng kịp mà đóng cửa nữa. Điền Mộ Thanh trước giờ cũng tương đối bình tĩnh, nhưng từ lúc gặp chiếc đầu ma nữ này thì mặt biến sắc, xám xịt như người chết, cô sợ tới mức thụt lùi mấy bước liền. Tôi cũng sợ tới nỗi tay chân mềm nhũn cả ra, chiếc đầu ả ma nữ này rất xinh đẹp, ánh mắt lại lẳng lơ đưa tình, hai mắt nhìn vào ai thì như hớp được hồn người đó, nhưng chiếc cổ của nó thì còn đỏ hơn cả gan lợn, trông thật khủng khiếp. Kỳ lạ hơn là chiếc cổ của ả ta càng về phía dưới càng to hơn, mùi máu hôi tanh càng nặng hơn, nôm giống như một cái lưỡi, phía đầu lưỡi mọc ra một cái đầu. Tôi nghĩ bụng, không khéo đây là một cái lưỡi thật, vậy thì cái miệng bên ngoài cửa điện kia phải to biết nhường nào? Tôi càng nghĩ càng thấy sợ, bất giác lùi về phía sau, nhưng sự việc xảy ra quá nhanh, chiếc đầu ma nữ ngay lập tức đã tiến tới trước mặt chúng tôi, tôi nắm chặt bó đuốc trong tay huơ về phía chiếc đầu, không ngờ nó há miệng cắn ngay vào bó đuốc, tôi bị chiếc đầu giật mạnh về phía nó, không thể giữ bó đuốc lại được, văng ra xa tắt ngúm, trong điện bỗng chốc tối như hũ hút, có giơ tay ra trước mặt cũng không nhìn thấy gì. Tôi bị lực kéo quái đản đó giật mạnh, mất thăng bằng ngã sóng soài ra sàn nhà, trong lòng sợ hãi, nhớ lại chuyện đèn lồng đầu người tôi vừa kể cho Điền Mộ Thanh và Mặt dày, nhưng đó là đầu treo trên cần lồng đèn, còn con quái vật ngoài cửa điện kia là đầu mọc ra từ lưỡi. Tứ bề tối đen, tôi mở to mắt hết cỡ cũng không nhìn thấy gì, trong lòng hoảng loạn vô cùng, vội vàng tìm chiếc đèn pin, khi ánh sáng vừa xuất hiện thì tôi cũng nhìn thấy chiếc lưỡi mọc đầu người kia đang lao tới phía tôi như hình với bóng. Tôi vội lăn người tránh sang một bên, cảm nhận được đám thịt lạnh như băng có gai nhọn xoẹt qua người, suýt chút nữa tôi đã ngất xỉu vì mùi hôi thối và tanh tưởi tỏa ra từ chiếc lưỡi, nếu không phải trong bụng trống rỗng thì giờ tôi đã nôn sạch bách ra rồi. Lúc này, Mặt dày cũng đã hoàn hồn, không kịp bóp cò, anh ta lấy hết sức bình sinh nện báng súng vào cái lưỡi, cái thứ ở ngoài điện đang thu lưỡi về, anh ta bị đẩy bật ra phải đến bảy tám bước, đầu va mạnh vào chiếc cột, máu chảy đầm đìa. Anh ta cứ để máu chảy vậy chẳng thèm lau, vừa chửi vừa nhảy dậy, nhưng trước mặt tối đen như mực, súng cũng chẳng biết văng ra góc nào, tiện tay sờ được chiếc cuốc chim, cứ vậy xông lên khua loạn xạ như một con hổ điên. Tôi trông thấy tình hình như vậy, cũng không biết sức mạnh ở đâu ra, đứng bật dậy, cầm chiếc xẻng cứ thế chém ngang chém dọc. Chiếc lưỡi ma quái phần lớn là ở phía ngoài điện, vươn vào tới chính giữa gian điện là hết cỡ, nó cố rướn sâu vào bên trong khiến gian điện rung lên bần bật, đất bụi trên trần điện rơi xuống lả tả, tường cũng sắp sập tới nơi, Điếu bát thì vẫn nằm dưới đất bất tỉnh. Nếu tôi và Mặt dày nhân cơ hội này chạy trốn vào phía trong thì cũng không khó, như vậy tạm thời giữ được tính mạng của mình, nhưng không thể nào bỏ lại Điếu bát, hai người tuy đều sợ hãi đến tột cùng, nhưng không có cách nào để lùi bước, đành liều mạng cầm cự, được chút nào hay chút đó. Tôi thì cứ mong Điền Mộ Thanh lôi Điếu bát vào bên trong lánh nạn, nhưng tình thế quá nguy cấp, thở còn không kịp thở, sức đâu mà mở miệng nói nữa chứ. Chiếc đầu ma nữ phát ra tiếng cười ma quái cứ vang vọng khắp nơi trong điện, hành tung thật ma quái, lúc trên lúc dưới, lúc trước lúc sau, lúc này chúng tôi không có súng, cho dù có súng trong tay thì cũng chẳng bắn trúng được ả. Mặt dày mặt be bét máu, từng giọt từng giọt rơi xuống nền nhà, anh ta cũng chẳng thèm để ý, khắp người nổi gân cuồn cuộn, ra sức khua khoắng chiếc cuốc chim, bổ vào trong không khí nghe vun vút, chỉ mong có thể ghim thẳng vào chiếc lưỡi kia, nhưng trong điện tối đen tối ngòm, anh ta chỉ dùng sức chẳng biết dùng trí thì làm sao mà chạm vào kẻ địch được, mấy lần suýt chút nữa bổ phải tôi, cuối cùng thì anh ta bổ cái phập vào cái cột, vì dùng lực quá mạnh nên lưỡi cuốc ăn vào hơi sâu, anh ta kê chân vào cột nghiến răng nghiến lợi giật ra mà không được. Tôi thấy cái lưỡi kia đang lao về phía Mặt dày, vội cầm xẻng chém chiếc đầu ả ma nữ trên cái lưỡi, không ngờ chiếc đầu đó chuyển hướng quá đột ngột, tôi còn chưa kịp nhìn kỹ thì thấy thân mình đã bị trói chặt, chiếc lưỡi kia đã cuốn chặt lấy tôi, tay chân tôi không còn động đậy được nữa, cái đầu ả ma nữ thì vòng ra trước mặt tôi, khúc khích cười mấy tiếng liền, lúc này tôi thấy khuôn mặt ả ta thật là đáng hận, mùi tanh hôi xộc lên càng khiến tôi buồn nôn kinh khủng. Tôi cố hết sức né tránh, hiềm nỗi tay chân bị trói chặt không động đậy được, chiếc lưỡi ngày càng thít chặt hơn, chiếc đèn pin rơi xuống đất vẫn còn sáng, chiếu thẳng vào cái đầu trước mặt tôi, hai khuôn mặt gần như sắp chạm vào nhau. Vì khoảng cách quá gần, nên nhìn thế nào cũng không giống khuôn mặt của người còn sống, tôi cuống tới nỗi gân xanh trên trán giật lên từng hồi, toàn thân chỉ còn mỗi phần đầu là có thể động đậy được, tôi hét to lên: “Xem tao cắn đây!” tôi nhằm thẳng vào khuôn mặt ả ma nữ chuẩn bị cắn. 5 Tôi há to miệng chuẩn bị cho một nhát vào cái đầu ma nữ đang tiến lại gần sát mặt mình, bỗng một luồng sáng xanh xoẹt qua trước mặt, cái đầu ma nữ mọc nơi đầu lưỡi lắc lư vài cái rồi rơi xuống lăn lông lốc trên mặt sàn, khuôn mặt xinh xắn trở nên méo mó, hai mắt trợn ngược, co giật một lúc rồi im bặt không động đậy nữa, khuôn mặt ngay lập tức chảy sệ, xuất hiện sự phân hủy. Cái lưỡi có vẻ rất đau đớn, vội rụt lại ra phía sau, tôi thấy cơ thể mình được thả ra, rơi bịch xuống sàn nhà, cảm giác như xương khớp toàn thân đều bị gãy. Hóa ra Điền Mộ Thanh nhìn thấy bộ dạng của ả ma nữ thì sợ quá, lùi lại nấp phía sau chiếc cột, trông thấy tôi ở thế bất lợi, cô vội nghĩ cách tiếp ứng, trong lúc luống cuống có gì dùng nấy, cô cầm chặt lấy thanh kiếm đồng trong tay chém thẳng vào chiếc lưỡi đang cuốn chặt lấy tôi. Thanh kiếm này không lợi hại tới mức có thể chém được rồng nhưng cũng rất sắc bén, một nhát kiếm đã chém đứt cái đầu. Tôi thấy thật xấu hổ, lại để Điền Mộ Thanh ra tay cứu mình lần nữa. Thấy bên ngoài không còn động tĩnh gì, tôi nhịn đau nhặt chiếc đèn pin lên, Mặt dày lúc này cũng mới rút được chiếc cuốc chim ra khỏi cột. Ba người cùng lượn một vòng quỷ môn quan về, nỗi sợ hãi khủng khiếp đó lan tỏa toàn thân, một lúc sau vẫn chưa ai thốt được lên lời. Sàn nhà nhầy nhụa máu, mùi hôi tanh sặc sụa, nhan nhản là những mảnh xác người chết, bên ngoài điện cũng từng đống xác người nát vụn, lớp sương mù trắng bạc trước đó giờ chuyển thành màu đỏ của máu. Tôi và Điền Mộ Thanh băng bó vết thương cho Mặt dày, lớp sương máu bên ngoài điện vẫn chưa tan, chúng tôi không khỏi sợ hãi, biết rõ trong thôn làn này chẳng có chỗ nào là an toàn, nhưng cũng chẳng ai muốn ở lại cái nơi khắp nơi đều là xác chết này một chút nào. Mặt dày nhặt khẩu súng săn lên, tôi cõng Điếu bát, Điền Mộ Thanh cầm đèn pin, cả bọn vội vội vàng vàng đi về phía đường hầm phía tây ngôi làng. Nhưng địa thế ngôi làng đều bố trí xung quanh núi Huyền Cung, nhà dân phần lớn đều là các hang đá, phân bố theo sườn núi, bên trong quét một lớp vôi, dựng mái lợp ngói, chia thành hai gian trước và sau, phía dưới đốt củi, phía sau là phòng ngủ, phía trước đắp lũy giống như bức tường bình phong, chỉ có kích thước khác nhau, còn hình dạng nghìn cái như một. Số nhà trong thôn không nhiều, khoảng hơn mười nghìn người, dân làng đều tin vào tôn giáo đã được truyền lại hơn hai nghìn năm, xung quanh đắp thành lũy bằng đất để tránh kẻ địch, nói nơi đây là một thành trì cổ kể cũng không ngoa. Nhà cửa ở phía Tây ngôi làng không có dấu tích bị hủy hoại, những mái nhà cao thấp ẩn hiện trong sương mờ, tuy cỏ dại mọc um tùm, trong không khí nồng nặc mùi ẩm móc và hôi thối, xương người rải rác khắp nơi cho thấy nơi đây không có sự sống, nhưng chúng tôi luôn có cảm giác vẫn còn người sinh sống ở đây, không phải là ảo giác mà hoàn toàn có thể cảm nhận được hồn phách của những người đã chết vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Tôi vừa đi vừa hỏi Điền Mộ Thanh, tại sao mỗi lần nhìn thấy chiếc đầu ma nữ kia thì cô đều hoảng sợ như vậy? Điền Mộ Thanh cũng không giấu giếm chúng tôi nữa, cô kể: “Năm xưa, người dân trong làng cố hết sức để đưa rồng đất tới Đất quỷ, nhưng trong lúc hành lễ thì xảy ra sự cố, cả thôn làng đều gặp nạn diệt vong, tất cả là đều do người phụ nữ kia.” Tôi giật mình: “Dường như nó là một con quái vật được hình thành từ rất nhiều oan hồn của người chết, chiếc đầu ma nữ mọc trên đầu lưỡi rất xinh đẹp chuyên dụ người tới miệng yêu quái để ăn thịt, không lẽ ả ta đó cũng là một phụ nữ trong làng?” Điền Mộ Thanh gật đầu, nói: “Ả ta là Na bà của thôn.” Tôi và Mặt dày nghe thấy đều lấy làm lạ, chiếc đầu đó trông vẫn còn trẻ trung, dung mạo khác thường, sao lại gọi là Na bà? Điền Mộ Thanh nói: “Trong Na giáo có phân Na bà và Na ông, giống như nam thần và nữ thần của làng, không kể tuổi tác, địa vị của họ rất cao.” Năm xưa, khi Phùng Dị Nhân ăn phải trứng rồng đất, qua mấy chục năm mà vẫn không già, đợi khi dân làng phát hiện ra thì đã thành xác chết biết đi. Dân làng lập kế bắt được tại điện Na vương, mổ bụng rút ruột tại chỗ, tính lấy cục thịt rồng đất trong bụng anh ta ra nhưng rồng đất và thi thể của Phùng Dị Nhân đã hợp nhất làm một, không những không tiêu diệt được rồng đất mà người dân trong làng bị chết không ít, đành phải chịu hậu táng tại núi Huyền Cung, dựng miếu cúng tế, mỗi năm đều dâng tế đồng nam đồng nữ, cùng trâu đen ngựa trắng, cứ vậy thầm lặng chờ đợi thời cơ để đem oan hồn và thi thể của rồng đất vào hố tế lễ, đưa về Đất quỷ. Lúc đó, trong thôn chia thành hai phe phái, một phái theo Na vương thờ Na thần, tuân thủ các nghi lễ do tổ tiên truyền lại, phái này chiếm khoảng tám mươi phần trăm dân làng; sau đó xuất hiện thêm một phái nữa do Na bà cầm đầu, phái này thấy Phùng Dị Nhân ăn thịt rồng đất trở nên trường sinh bất lão, trong khi mình thờ Na thần cả đời mà vẫn phải chịu theo quy luật sinh lão bệnh tử, chẳng thu được chút lợi lộc gì, vì vậy sinh hai lòng, âm mưu giúp rồng đất sống lại. Những người theo phái của Na bà biết tin ngày mười ba tháng bảy năm Nguyên Bảo thứ ba sẽ có thiên cẩu ăn mặt trăng, lúc đó cánh cổng phía tây thôn làng sẽ được mở. Họ âm mưu ngăn chặn Na vương đưa rồng đất vào nơi muôn kiếp không có ngày tái sinh đó. Buổi chiều hôm ấy, nhân lúc mọi người đang hành lễ, Na bà cầm đầu hơn ba trăm người nổi dậy tạo phản, họ kéo đến Na miếu phá hủy tượng thần, sau đó chia thành nhiều nhánh đánh úp giết Na vương. Có cô bé tay cầm chiếc gương đồng trốn được vào phía sau miếu nên đã thoát được tai nạn đẫm máu đó, nhưng vì tuổi nhỏ sức yếu không đủ sức đẩy cánh cửa đá để ra ngoài nên cuối cùng vẫn bị chết ở trong. Những người theo Na bà tạo phản không nhiều, lại hành sự đột xuất, kế hoạch không được chặt chẽ, làm sao thực hiện được một sự việc trọng đại như vậy chứ? Cuối cùng phân nửa trong số bọn họ bị giết, còn lại bị bắt làm tù binh. Na vương nổi giận lôi đình, chiếu theo quy định của Na giáo phán tội tử hình, tất cả bọn họ đều chịu hình phạt lăng trì tàn khốc, người cầm đầu nổi loạn là Na bà cũng bị bắt, cả gia đình nhà cô ta hơn mười người già trẻ lớn bé đều bị trói lên cột hành hình, người dân trong làng lột hết quần áo của họ, dùng vỏ trai được mài sắc để xẻo thịt. Ngày hôm đó, khắp thôn Thiên Cổ Dị Đế máu chảy thành suối, khắp nơi dậy lên tiếng kêu la gào thét kinh thiên động địa. 6 Tôi nghe kể mà cũng thấy ớn lạnh, thiết nghĩ vỏ trai cho dù sắc đến mấy thì cũng không bằng lưỡi dao, dùng nó để xẻo thịt thì cảm giác sẽ thế nào chứ? Nhưng Na giáo từ xưa đều thờ Na thần, những người tạo phản to gan dám phá hủy Na miếu, chuyện bại lộ tất không thể có kết quả tốt được, hình phạt dùng vỏ trai xẻo thịt cho đến chết chính là hình phạt “ngàn đao vạn quả” tàn khốc. Điền Mộ Thanh kể, ngày hôm đó Na bà đã bị chịu hình phạt tùng xẻo, toàn thân máu thịt be bét, đau đớn mà không thể chết ngay lập tức, cô ta không chịu nổi hình phạt tàn khốc đó, đã khóc lóc van xin ban cho cái chết nhanh chóng, dân làng lại muốn cô ta phải chịu khổ sở thêm chút nữa nên đã xẻo thịt liên tục trong hai ngày, chỉ giữ lại cái đầu. Tất cả thịt xẻo được đều vứt xuống khe đất phía đông của làng mà không chôn, để mặc cho diều tha quạ mổ. Vì phát sinh sự cố này nên tại thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng, toàn bộ thôn làng đã bị rơi vào Đất quỷ, người dân trong làng đều trở thành vật tế, xương thịt kẻ phản loạn chất cao thành núi, oan hồn không tiêu tán được đã biến thành một khối thịt không tay không chân, chỉ có một cái miệng, nó thường lè lưỡi ra dụ những thanh niên trẻ tuổi vào trong thôn để ăn thịt, vừa rồi chiếc đầu bị cắt đứt, oán khí bên trong thoát ra ngoài biến thành làn sương mù bằng máu. Điền Mộ Thanh dần dần nhớ lại từng việc một, quang cảnh đại nạn năm xưa của làng đã dần dần hiện ra. Tôi chỉ thấy lạ là tại sao cô ấy lại sợ Na bà đến vậy? Tôi có một bụng thắc mắc muốn hỏi, chưa kịp thốt thành lời đã thấy Điền Mộ Thanh rảo nhanh bước chân, xăm xăm tiến về phía trước, tôi gọi thế nào cô ấy cũng không nghe, sắc mặt có phần cổ quái. Lúc này, cô ấy đã đi tới Thần đạo, phía trước lăng tẩm và đàn tế đều lát đá phiến, hai bên có tượng hình thú bằng đá. Chúng tôi vác Điếu bát theo sát phía sau, chỉ thấy mờ ảo trong làn sương là những cành cây gầy guộc, những hình bóng quái dị đan xen vào nhau, những tượng thú hai bên đường sứt mẻ không nguyên vẹn khiến hình thù trở nên quái dị, cái thì vỡ, cái thì đổ nằm nghiêng ngả trong bụi cỏ dại, có những tấm bia đá bên cạnh khắc nổi hình ác thú, nhưng chữ trên bia đã phai mờ nhìn không rõ, mùi hôi thối của xác chết không ngừng bốc ra từ phía mộ cổ. Tôi và