ại thôi, nhưng rồi cô vẫn nói, “Thực ra tôi không phải nhà tâm lý học tài ba, nhưng tôi vẫn có thể giúp anh.” Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, hình như anh không quen với những đề nghị nhiệt tình. “Chuyên gia giỏi nhất về thần kinh, ở Giang Kinh là Du Thư Lượng, đã điều trị cho tôi, có kết quả nhưng còn xa, mới chữa được tận gốc.” Na Lan định nói rằng, chữa trị chứng “sợ đám đông” không cần ác sĩ cao siêu, mà điều quan trọng là bệnh nhân phải quyết tâm và kiên trì. Cô chưa kịp nói thì Sở Hoài Sơn đã lên tiếng, “Trà đây rồi!” Hai tay anh không có gì hết. Na Lan kinh ngạc nhìn ra mé cửa, chẳng rõ lúc nào, một phụ nữ đã bưng khay trà đứng đó. Thì ra không phải anh ta ở một mình. Cả hai người của nhà nay đều xuất hiện hết sức lặng lẽ. Na Lan định nói “Chào bác ạ” vì trông người ấy có vài nét hao hao bà mẹ Sở Hoài Sơn trong bức tranh, nhất là đôi mắt. Nhưng cô lập tức xóa bỏ ý nghĩ đó, vì người phụ nữ này không nó nét duyên dáng, dịu dàng và đặc biệt là nét u buồn như người phụ nữ trong tranh. Ánh mắt người này cứng nhắc, lạnh lùng và không thân thiện. “Cảm ơn!” Na Lan tươi cười đón chén trà, mong sẽ làm dịu bầu không khí. Nhưng vô ích, sắc mặt người ấy vẫn lạnh lùng. Na Lan đoán rằng, lúc nãy người phụ nữ này đi xuống mở cửa rồi lánh vào bếp chuẩn bị pha trà, cho nên tiếng bước chân ấy biến mất. Cô nhìn xuống đôi chân bà ta, không thấy đi dép lê, chỉ đi đôi bít tất trắng. Sở Hoài Sơn giới thiệu, “Đây là dì Tư của tôi. Từ sau khi mẹ tôi qua đời, dì chăm sóc tôi suốt.” Nói đến hai chữ “qua đời”, hình như giọng anh nặng nề hẳn đi? Phải chăng bà mẹ mất sớm khiến anh ta mất cảm giác an toàn, rồi diễn biến thành nỗi sợ hãi? Cha anh ta đâu? Nhưng cũng may vì còn có người thân luôn ở bên. Nên phụ đề mấy câu vậy, người mắc chứng “sợ đám đông” đồng thời cũng sợ sống khép kín hoàn toàn. Vấn đề cốt lõi của họ là thiếu cảm giác an toàn. Tôi có thể giúp anh. Nhưng ai sẽ giúp tôi đây? Na Lan bỗng có cảm giác đồng bệnh tương lân. Khi đứng gần Mễ Trị Văn, cô luôn cảm thấy bị đe dọa. Cô nhớ lại những sự kiện trải qua, cha cô bị hại, luận văn tốt nghiệp đại học làm về phỏng vấn các phạm nhân hình sự, bị cuốn vào vụ án “năm xác chết”, các hiểm họa ở núi tuyết, ngón tay đứt lìa… Hiểu biết nhiều về tội ác, thì sẽ xuất hiện hai trạng thái cực đoan, hoặc ngày càng chai sạn hoặc ngày càng nhạy cảm. Rất không may, cô rơi vào tình huống thứ hai. “Muốn hỏi, mục đích của cô?” Sở Hoài Sơn một lần nữa cắt ngang dòng suy nghĩ của Na Lan. Hôm nay mình sao thế này, cứ hay lơ đãng? “Chúng tôi nhờ anh tìm một bí ẩn.” Na Lan lấy ra tờ giấy thiên thư của Mễ Trị Văn. “Một chữ bí hiểm.” Ba Du Sinh đã gọi điện cho anh rồi, chắc anh ta phải biết ít nhiều về mục đích của cô. Nghe Ba Du Sinh kể về Sở Hoài Sơn, hiểu rằng bậc kỳ tài này coi trọng chi tiết nên cô đã chuẩn bị để nói kỹ càng. Sở Hoài Sơn đưa bàn tay trắng xanh ra cầm tờ giấy, nghe Na Lan thuật lại vụ án ‘ngón tay khăn máu’ và cuộc tiếp xúc với Mễ Trị Văn. Anh ta nhìn con “chữ” rất lâu, không nói gì. “Mễ Trị Văn nói, chỉ tôi mới có thể giải được câu đố này.” Cô định cười nhạt nhưng không sao cười được. “Và anh cũng biết đấy, tôi hoàn toàn không nhận ra điều gì.” “Khiêm tốn quá…” Na Lan khẽ thở dài, “Thôi được, cũng không hẳn là tôi không nghĩ gì. Trước hết, đây là một trò chơi của lão. Cũng như các trò chơi thể dục thể thao hoặc trò chơi trên mạng, trò chơi này cũng đi từ nông đến sâu, để cho người chơi có chút khoái trá đã rồi dần say mê. Nếu không, tôi đã bỏ cuộc từ sớm.” Sở Hoài Sơn tủm tỉm, “Xem ra, Mễ Trị Văn đã tìm đúng người chơi rồi!” Na Lan gượng cười, “Cảm ơn anh động viên. Cho nên, cái chữ oái ăm này chắc sẽ không quá mệt óc… đương nhiên là dưới sự giúp đỡ của anh, có lẽ sẽ không khó lắm. Chắc chắn lão ta đoán rằng tôi sẽ đi cầu cứu cao nhân. Một cách nghĩ khác là, nếu nói chỉ tôi mới giải mã được thì tức là một phần nào đó của chữ này có liên quan đến tôi.” “Cô đã có, cách nghĩ thế này, thì đâu cần, anh mọt sách như tôi, hỗ trợ.” “Nhưng tôi không biết nên bắt đầu từ đâu.” “Cô đã nói là, chữ này, không khó lắm; một phần nào đó, có liên quan đến cô. Cách đơn giản, bước đầu là, tách nó thành vài bộ phận; Mễ Trị Văn đã tự xưng, là Thương Hiệt, thế thì phép tạo chữ, nguyên thủy, và trực tiếp nhất, là chữ tượng hình.” Na Lan nhìn lại con chữ, nhẩn nha nói, “Chữ tượng hình… thì phần trên cùng là chữ Nhân…” Sở Hoài Sơn gợi ý, “Là chữ Nhân, hoặc chữ Nhập. Theo thể chữ thông dụng Tân Tống thì là chữ Nhân; nhưng nếu theo thể chữ Triện, hoặc vài thể chữ cổ khác thì nó giống chữ Nhập hơn. Người thời cổ phát minh ra chữ viết, Thương Hiệt có công truyền bá. Đây là, ý kiến của riêng tôi, có nhiều khả năng, nó là chữ nhập.” “Tạm coi phần trên cùng là chữ Nhập, vậy phần giữa thì sao? Nếu là tượng hình, thì nó vẽ cái gì? Hình như là chữ Điền hoặc chữ Tinh, hoặc chữ Khai. Phần dưới cùng thì trực quan rồi, đó là chữ Thập. Nhưng phối hợp tất cả lại, vẫn không thu được kết luận gì.” “Nếu cô đã, không thể kết luận, thì tôi cũng đành thở dài vậy.” Na Lan nghĩ bụng, là bậc kỳ tài kia mà, anh không thể không biết! Sở Hoài Sơn nói như khuyến khích, “Chắc là, cô không thích, nghe câu này, nhưng tin rằng Mễ Trị Văn, không đùa bỡn cô, đúng là chỉ cô mới, có thể đoán ra, chữ này.” “Nhưng…” “Việc này, không thể vội vã.” Sở Hoài Sơn cầm một con dao khắc dấu trên bàn lên, khẽ thổi một cái, cứ như là vài hạt bụi đá dính vào mũi dao cũng không thể thoát nổi cặp mắt thần của anh ta. “Chắc anh Ba Du Sinh, đã kể rằng tôi và anh ta, từng hợp tác, vụ thứ nhất, vụ án tự sát giả.” Na Lan nói, “Một câu chuyện rất hay.” “Chắc anh ta đã nói, tôi phải tốn rất nhiều thời gian, để xem con dấu ấy.” “Tôi đang chờ anh lấy kính lúp ra.” Sở Hoài Sơn nhìn Na Lan, sắc mặt rất tươi, “Lần đó tôi nghiên cứu, là một đối tượng đã hình thành, con dấu đã in lên giấy, tôi thậm chí có ngay ấn tượng, biết là có người, đang hãm hại, viên quản lý đó, cho nên có thể tập trung sức chú ý. Nhưng hôm nay chữ này là một thứ giấu mặt, chúng ta không biết Mễ Trị Văn đang thiết kế một trò chơi như thế nào. Ta có thể suy ngẫm về một dấu son đã in rành rành ra đó, nhưng đối với một thứ đã được thiết kế tỉ mỉ, thì lẽ nào ta không cần tốn thời gian suy nghĩ nhiều hơn? Cô nên biết tuy đây chỉ là bước đầu tiên trong trò chơi của lão ta, nhưng chắc chắn không thể chỉ thoáng nhìn là khám phá được ngay. Nếu không thì, hóa ra là cảm hứng của bậc thầy tạo chữ ấy rất tầm thường hay sao?” Thật hiếm có, Sở Hoài Sơn đã nói liền một hơi! Na Lan cảm thấy vã mồ hôi thay anh ta. Cô nhíu mày, “Anh phân tích rất có lý. Chỉ hiềm, trở về tôi sẽ rất khó ăn khó nói với đội trưởng Ba Du Sinh.” “Cô cứ nói thật, nói rằng cao nhân kỳ tài này chỉ là người rất đỗi bình thường.” “Anh khiêm tốn như thế, thì anh ấy sẽ nghĩ là anh kiêu ngạo.” Sở Hoài Sơn khẽ thở dài, “Những người như tôi đôi khi cũng kiêu ngạo quá mức!” “Hay là tôi nên nói với anh ấy rằng, kiên nhẫn là một đức tính?” Na Lan có phần bất mãn. Lời cảnh báo “vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn” lại vang bên tai cô. Nhìn theo bóng Na Lan khuất hẳn ở góc phố, người phụ nữ lạnh lùng nói, “Cô ta rất nguy hiểm.” Sở Hoài Sơn chỉ im lặng, nheo mắt nhìn dì Tư. “Cháu đừng nhìn dì như thế!” Dì Tư mắng. “Mỗi lần dì nói toạc ra tâm tư của cháu, cháu lại lầm lì với dì.” Sở Hoài Sơn vẫn không hé răng. “Định chiến tranh lạnh với dì đến cùng chắc? Dì không ngán đâu! Cháu đã thích nó, đúng không?” Rốt cuộc Sở Hoài Sơn cũng nhẩn nha nói, “Dì khích tướng khéo thật! Nếu cháu cứ ngậm miệng, chắc dì sẽ nói cháu im lặng là thừa nhận chứ gì?” Dì Tư lắc đầu, vẻ khó tin, “Lẽ nào chỉ gặp một lần cháu đã…” “Cho nên, ngay dì cũng cảm thấy là không tưởng đúng không? Thực ra, mỗi lần dì cho rằng mình nhìn thấu tim gan cháu, đều chỉ là… dì tự nghĩ thế thôi.” Sở Hoài Sơn than thở. Nói thật, mất lòng! “Cháu cho rằng dì không nhận ra thật à? Nó ở đây chỉ nửa giờ mà cháu mỉm cười suốt. Còn dì, dì ở với cháu bấy nay mà chưa từng thấy mặt cháu tươi tỉnh lâu đến thế.” Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, “Giả sử dì cảm thấy cháu có vẻ khác thường, thì dì cũng không cần thiết phải hà khắc như thế.” Ngực dì Tư phập phồng rõ mạnh, hồi lâu sau mới dịu giọng nói, “Sơn à, lẽ nào cháu không hiểu dì lo cho sự an toàn của cháu? Cô gái đó rất nguy hiểm.” Sở Hoài Sơn cúi nhìn con chim thêu trên dép lê. “Lẽ nào, chỉ vì cô ấy khuyên cháu hãy ra khỏi căn nhà này?” “Không phải thế. Mà là vì chính cô ta. Báo chí đã viết mãi rồi, cháu không thể không biết những gì cô ta đã trải qua. Có những người bẩm sinh đã bị những mối nguy bám riết. Những ai gần gũi cô ta đều đã gặp bất hạnh.” “Dì cũng có thể, dùng những câu này, để hình dung mẹ cháu.” Vẻ mặt Sở Hoài Sơn trở lại đờ đẫn như mọi ngày, buồn thương bao phủ khuôn mặt anh. Dì Tư đã đạt được mục đích của mình rồi đấy! “Nói bừa!” Dì Tư định nổi nóng, nhưng Sở Hoài Sơn quay lưng lại. Dì biết, khi đứa cháu giở tư thế này ra thì nói nữa cũng vô ích. Dì mím chặt môi, xoay người lặng lẽ bước đi. Đi đến đầu cầu thang, giọng của Sở Hoài Sơn bỗng vang lên sau lưng, “Tại sao… dì lại… bỏ dép ra?” Vì dì muốn bước chân mình thật êm, để có thể nấp ở chỗ khuất quan sát cô gái nguy hiểm kia. Lão nằm trên giường, người lúc thì rã rời như thể xướng cốt nát nhừ , lúc thì đau đớn ngạt thở như bị trói chặt cứng. Thượng đế có thể lấy lão bất cứ lúc nào. Có thượng đế hoặc Phật tổ thật không? Nếu có, thì tại sao họ lại bất công với lão nhường này? Lão bị giày vò từ nhỏ, từ lúc ngây thơ nhất! Cho nên không hề có thượng đế hay Phật tổ; hoặc nếu có thì lẽ ra họ không được hưởng quá nhiều vinh dự như thế, không được nắm giữ số phận của nhiều người như thế. Vì vậy lão phải thiết kế ra trò chơi của mình. Mục tiêu tiếp theo đã được lựa chọn, rất hoàn mỹ và phù hợp với mọi yêu cầu. Chỉ cần lão vẫn còn hít thở đến ngày hôm đó thì tất cả vẫn có thể tiếp tục thực hiện như kế hoạch. Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn. Trước giờ nhà ăn đóng cửa, Na Lan mua được suất cơm rồi ngồi một mình nhấm nháp. Đầu óc cô vẫn hiện lên ký tự kỳ quái do Mễ Trị Văn sáng tạo ra. Thỉnh thoảng hình ảnh ngôi nhà gác nho nhỏ kỳ quái và hai chủ nhân của nó cũng lướt qua. Chỉ trong nửa ngày đã có quá nhiều chuyện kỳ quái. Khác với hình dung của cô, Sở Hoài Sơn rất trẻ, hào nhã, khiêm tốn. Điểm đặc biệt nhất của anh ta là luôn tỉ mỉ từng li từng tí, chỉ đôi dép lê cũng rất chỉn chu. Dì Tư thì khiến người ta hết sức khó hiểu. Na Lan không cần giao lưu thêm cũng nhận ra thái độ hằn học không che giấu của người ấy. Tại sao lại thế? Là ý thức che chở và ghen tị của giống cái chăng? Tại cô chưa hề thể hiện mong muốn trở thành tri âm tâm đắc của người cháu tài ba nhà bà ta chăng? Na Lan nhìn di động đang đặt trên bàn. Từ sau tối hôm qua, số máy quen thuộc ấy không lóe lên nữa. Tần Hoài đang giở chứng bỡn cợt gì không biết. “Lan muội đang thẫn thờ gì thế?” Cô gái không mời mà đến, ngồi xuống bên cạnh Na Lan. Một cô gái rất hay cười. Khuôn mặt cô không thực sự hài hòa, nhưng đôi môi luôn nở nụ cười đã bù đắp đáng kể. Đào Tử! Đào Tử là bạn thời đại học rồi lại làm bạn nghiên cứu sinh với Na Lan, kể cả khi không học họ vẫn luôn quấn quýt, vì ở cùng một phòng trong ký túc xá. Họ rất hiểu nhau, đến nỗi người này nói ra câu trước thì người kia có thể nói tiếp câu sau. Hai năm qua có vài gã thích trêu ngươi thường gửi vào hộp thư của họ những cuốn tiểu thuyết bách hợp [1'>, thoạt đầu hai cô rất tức giận, ít lâu sau thì coi như “trơ” rồi, không thèm để ý nữa. [1'> Tiểu thuyết về đồng tính nữ Na Lan nói, “Còn có thể là gì khác? Đương nhiên là mình đang nhớ đến ai đó…” Thực ra là cô đang nhớ đến con chữ kia, nhưng cô biết dù mình không nói trại đi thì Đào Tử cũng sẽ quy kết về Tần Hoài, đã nhiều lần Đào Tử khuyên cô hãy đá phăng Tần Hoài cho nhẹ nợ. Nhưng cô không làm được. Sau lần trùng phùng ngắn ngủi với Cốc Y Dương, tình xưa vừa nồng ấm trở lại thì đã tan vỡ. Chính Na Lan cũng không biết những lúc thẫn thờ nhớ nhung thì cô nghĩ đến ai. Đào Tư cười nhạt, “Cậu định lừa ai thế? Nếu đang nhớ đến Tần Hoài thật thì cậu sẽ không nói ra!” Đúng, chỉ có Đào Tử thấu hiểu cô. “Mình nói thật vậy, hôm nay mình gặp một anh rất điển trai”. Na Lan do dự, không biết có nên kể cho bạn nỗi sợ hãi đối với Mễ Trị Văn hay không. Đào Tử là bạn chí thân, cô không muốn bạn chí thân vị cuốn vào cùng nguy hiểm nhất trong cuộc sống của cô. Nhưng cô lại thấy ý nghĩ này thật buồn cười, Mễ Trị Văn như khúc gỗ mục bị trói trên giường bệnh thì có gì là nguy hiểm? Vụ “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn! Là sự đe dọa vô căn cứ hay là lời dự báo không hề úp mở? Nghe Na Lan kể xong mọi điều tai nghe mắt thấy ở căn nhà Sở Hoài Sơn, Đào Tử nhẩn nha nói, “Anh chàng này cũng hơi thú vị đấy! Hội chứng “sợ đám đông” không phải bênh bẩm sinh, cảnh ngộ của anh ta ra sao?” “Một là, cha mẹ đều mất, đứa trẻ từ nhỏ sẽ thiếu cảm giác an toàn.” Na Lan vẫn nghĩ, liệu có phải mất cảm giác an toàn bắt nguồn từ việc người cha bị hại một cách khác thường không? Đào Tử chỉ ra, “Nhưng anh ta vẫn còn có tình thường của dì Tư.” “Mình cho rằng không ai có thể thay thế cha mẹ.” Cô còn định nói dì Tư là nhân vật rất thú vị ở ngôi nhà nhỏ ấy. “Điều thứ hai là gì?” Đào Tử hỏi. “Có lẽ vị cao nhân này hồi nhỏ mắc tật nói lắp.” Na Lan nói. Mình không có căn cứ gì, nhưng anh ta thường nói nhát gừng, nói câu ngắn, nghe hơi kỳ lạ, đôi khi ngừng ngắt giữa chừng. Trẻ con nói lắp thường bị bạn học chế nhạo, vì thế mà thấy sợ đám đông, sợ giao tiếp.” “Cậu ngẫu nhiên nói đến nỗi đau của mình rồi đấy, hôm nay mình đến bệnh viện Giang Kinh dạy Tâm lý học dẫn luận cho cánh trẻ , học sinh thời nay thái độ rất kém!” Na Lan cười ngặt ghẽo, “Nhất là khi nhìn thấy cô giáo mỹ nhân dạy Tâm lý học, nam sinh thì được ngắm, nữ sinh thì vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị, thái độ của họ tốt sao được?” Buổi chiều, Na Lan phải lên lớp trợ giảng đến 5 giờ rưỡi. Khi cô chuẩn bị rời văn phòng thì chuông di động réo vang. Sở Hoài Sơn gọi. Cô hơi bất ngờ. “Cả chiều nay tôi nghĩ đến cô…” Na Lan đỏ mặt. Sao anh ta có thể thế này?! Lẽ nào kỳ tài này còn là kỳ tài tán tỉnh? Nghe tiếp thì cô mới hiểu, câu đầy đủ của Sở Hoài Sơn là “cả chiều nay tôi nghĩ đến cô, thuật lại lời Mễ Trị Văn, rằng ‘chỉ có cô mới có thể giải mã’.” Na Lan gượng cười, nhớ lại lúc trưa mình có kể với Đào Tử về tật nói ngắn, nhát gừng, ngắt câu không đúng chỗ của Sở Hoài Sơn, khiến người nghe hiểu lầm. “Anh nói tiếp đi!” Na Lan tin chắc anh ta đã nhen nhóm ý tưởng nên mới gọi điện cho cô. “Nói là chỉ cô mới có thể giải mã, thì chữ này phải liên quan đến cô. Hai phần trên dưới, gồm chữ Nhân hoăc Nhập, và chữ Thập, đều rất hay gặp. Đáng chú ý chỉ là, phần giữa của chữ này.” “Nó hơi giống chữ Điền, phải không?” “Tôi khẳng định không phải chữ Điền.” Giọng Sở Hoài Sơn rất tự tin. “Từ thời cổ đến giờ, chữ Điền luôn được khoanh kín xung quanh, còn chữ này thì bên dưới bỏ ngỏ, ở giữa có hai nét sổ, trông giống chữ Sách [2'> hơn.” [2'> Chữ Điền (田), chữ Sách ( ) “Vậy nó có thể là chữ gì? Hay chẳng là chữ gì cả?” “Cô đã trồng trọt bao giờ chưa?” Na Lan cảm thấy quá xa xôi, “Tôi sống ở thị trấn, chưa trồng cây bao giờ cả.” “Nhưng chắc cô đã nhìn thấy ruộng?” “Có chứ! Nhưng anh vừa nói… phần giữa không phải chữ Điền?” “Cô nghe cho kỹ đây.” Giọng Sở Hoài Sơn trở nên già dặn . “Bây giờ cũng ‘chỉ cô’ mới làm được, cô nhớ lại xem, cô đã từng nhìn thấy ở đâu đó một dấu hiệu, một bức vẽ , phù điêu, hoặc một kiến trúc … có thể là nằm ngoài ruộng đồng… trông na ná bộ phận ở giữa con chữ này không?” “Dấu hiệu? Ở ruộng đồng?” Na Lan lẩm bẩm, và cố nhớ lại. Có vài hình ảnh, vài chuyện xưa cũ thấp thoáng lướt qua trong đầu. Cô tĩnh tâm suy nghĩ, Sở Hoài Sơn cũng im lặng, để cô có thời gian và tinh thần hồi tưởng. Lát sau anh bổ sung một đặc điểm then chốt, “Chi tiết ấy có liên quan đến chết chóc, đến vụ án “ngón tay khăn máu” mà cô muốn khám phá. Chết chóc…” Na Lan bỗng đứng lên. Hình ảnh chập chờn trong đầu lúc nãy… cô gần như đã có thể liên hệ các sự việc lại với nhau. Liên quan đến chết chóc! “Tôi nhớ ra rồi. Tôi đã từng nhìn thấy một thứ giống như phần giữa của những chữ này.” “Thế à?” Cô đã nhớ ra, trong “vụ án năm xác chết” hồi nọ, cô từng đến vùng ngoại thành Lĩnh Nam để tìm khu mộ của gia đình “nhân vật số 1 Lĩnh Nam” Quảng Cảnh Huy. Ở đó có xây một cổng chào viết bốn chữ “Quảng thị âm thổ”. “Thì ra, hình tượng ở phần giữa cái chữ kia là cổng chào! Nằm giữa ruộng đồng và đương nhiên có liên quan đến chết chóc, vì cổng chào ấy xây ở lối vào khu mộ.” Sở Hoài Sơn nói tiếp, “Đúng là rất giống. Rất hay gặp. Kết cấu của cổng chào kiểu đó là bốn trụ, ba cổng. Mễ Trị Văn nói đúng đấy, chỉ cô mới có thể giải được câu đố!” “Thế mà gọi là đã giải được à?” Na Lan ngạc nhiên, nhưng mau chóng hiểu ra. Con chữ quái dị của Mễ Trị Văn, trên cùng là chữ Nhập (đi vào), phần giữa là cái cổng chào chỉ mình Na Lan nhận ra, ngụ ý là nghĩa địa. Tức là tung tích của Nghê Phượng Anh ở đâu? Ở nghĩa địa! Có nhiều khả năng là “đã nhập mộ rồi”. Xuống đất. Đã bỏ mạng. Nhưng ở nghĩa địa nào? Sở Hoài Sơn vẫn im lặng. Na Lan hiểu rằng anh ta muốn cô đưa ra kết luận. Cô thận trọng hỏi, “Có phải chữ Thập bên dưới là manh mối để tìm ra ngôi mộ không? Nó sẽ ở đâu? Có lẽ nó là tên của một nghĩa trang?” “Các vụ ‘ngón tay khăn máu’ xảy ra ở Giang Kinh.” Sở Hoài Sơn tiếp tục gợi ý. “Nghĩa trang chủ yếu của Giang Kinh là nghĩa trang Vạn Quốc. Nhưng hình như còn có nhiều nghĩa trang mới, an trí bên ngoài năm tuyến vành đai. Tên là nghĩa trang Bách Kiều, nghĩa trang…” “Tây Sơn công mộ, Vĩnh Lăng viên, Vong Xuyên công mộ, Mai Hạc đường… trong các tên này đều có chữ Thập.” Sở Hoài Sơn không ra khỏi nhà nhưng dù sao vẫn là dân Giang Kinh, anh thuộc lòng tên các nghĩa trang. Nhập, mộ, thập… chữ Thập sau khi chết? Na Lan bỗng thốt lên, “Cơ đốc giáo! Giang Kinh có nghĩa trang của Cơ đốc giáo không?” Ở đầu dây bên kia, Sở Hoài Sơn thở ra một hơi, không rõ là cảm xúc gì. Phải chăng anh ta đã đoán ra rồi? Lát sau anh ta mới nói, “Ở Giang Kinh có một nghĩa trang Thiên chúa giáo, tọa lạc đằng sau một nhà thờ cũ, nằm ở vùng giáp gianh hai khu Văn Viên và Tân Giang, cách Đại học Giang Kinh của cô không xa. Thời xưa là khu tô giới, người nước ngoài chết, nếu đưa về nước chôn thì phải chở bằng tàu thủy, quan tài sẽ bốc mùi, nên họ chôn ở đây. Tất nhiên cũng có một số mộ của các giáo dân danh giá người Trung Quốc…” Na Lan ngồi trở lại bàn, lên mạng tra cứu, nghĩa trang Thiên chúa giáo là khu di tích cấp thành phố được bảo vệ, số nhà 153 đường Ao Bán Mẫu. Vấn đề đã sáng tỏ hẳn, chữ Điền mà không phải chữ Điền, lại là chữ Mẫu! Hai nét chữ phía trên chữ Điền, trông tựa như chữ Nhập [3'>. [3'> Chữ Điền (田), chữ Mẫu ( ). Sở Hoài Sơn tiếp tục nói, “Nhưng nghĩa trang này ngừng chôn cất từ lâu rồi…” Na Lan rất muốn hỏi, anh có thể ra khỏi nhà, đi cùng tôi đến đó không? Liệu anh ta có chấp nhận việc bước ra xã hội lần đầu tiên lại là đi đến nghĩa địa? Nếu chứng sợ đám đông bắt nguồn từ vấn đề thiếu cảm giác an toàn, thì một mình cô tháp tùng đâu đủ trấn an anh ta? Cừ từ từ đã vậy. Cô bèn nói cảm ơn. Rồi rảo bước ra khỏi văn phòng. Nếu trao đổi với Sở Hoài Sơn thêm vài phút nữa, Na Lan sẽ biết ở Giang Kinh này có năm nhà thờ Thiên chúa giáo, trong đó nhà thờ Đức Bà và nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse nằm ở khu Văn Viên. Nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse là tổ chức duy nhất có nghĩa trang ở Giang Kinh. Na Lan ra vào khu nghĩa trang, trước mặt cô là cây thập tự bằng đá bạch ngọc nay đã sẫm màu. Nhập, Điền, Thập; Nhập, Nghĩa trang, Thập; Mẫu, Thập… nên lý giải sao đây? Đầu óc cô vẫn rối bời. Cổng sắt khóa. Nếu chờ cho trời tối hẳn, có thể trèo qua mà vào. Nhưng Na Lan không có tài leo trèo bẩm sinh nên đành đi vòng sang góc ngoặt, gõ cửa nhà thờ. “Đã hết giờ mở cửa.” Bên trong, một bà xơ dịu dàng từ chối. Bà chừng ngoài 40 tuổi, rất điềm đạm. “Cháu… không vào để làm lễ Misa ạ.” Na Lan không biết nên tự giới thiệu ra sao. “Cháu chỉ muốn… vào xem nghĩa trang của giáo hội các vị.” Bà xơ rất nhẫn nại, “Ba mươi năm nay nghĩa trang không an táng ai nữa. Thành phố đã xếp hạng là kiến trúc lịch sử để bảo vệ, nói chung người ngoài không được…” Di động của Na Lan bỗng đổ chuông, cắt ngang màn thuyết phục của cô. Lại là Sở Hoài Sơn. “Tôi chợt nghĩ ra, có lẽ cô không thể vào khu nghĩa trang ấy.” Kỳ tài lúc này chẳng khác gì quân sư nói vuốt đuôi! Na Lan thở dài mỉm cười ch