ủa một thế lực xa lạ. Việc đã xảy ra. Sau đó còn là hậu quả với mẹ của người đã chết, bà ta lộ rõ là một người đàn bà độc ác tinh ranh. Bà ta muốn trả thù và suýt chút nữa đã thành công. Sếp Powell rõ ràng bây giờ đang cần người tâm sự, và thanh tra Suko là một ứng cử viên lý tưởng. Vậy là một mình tôi sẽ quan tâm đến những khó khăn của anh bạn Vladimir Golenkov. Một Người Sói! Vladimir thuộc loại đàn ông có lời nói như dao chém đá. Nếu anh ấy gọi điện cho tôi nhờ giúp đỡ, thì chắc chắn một trăm phần trăm là có tồn tại những vấn đề hết sức khó khăn. Việc đã xảy ra không chỉ một lần. Anh không giải thích nhiều, chỉ nói duy nhất một câu nhưng đầy đủ mọi thông tin. Bốn nạn nhân! Trọn vẹn một gia đình ông bố, bà mẹ, đứa con trai và kể cả cô con gái nhỏ. Nghe xong thông điệp, làn da tôi thoắt trắng nhợt ra. Vậy là một lời nguyền độc địa đã thành hiện thực trong ngôi làng đó. Người bị con quái vật loại này cắn phải cũng sẽ lại thành Người Sói. Nó cũng sẽ lại đi tìm nạn nhân mới, sẽ cắn họ, biến họ thành những Người Sói mới nữa. Một vòng quay khủng khiếp như đối với Ma Cà Rồng. Con tàu lừ đừ chòng chành trôi giữa một miền đồng bằng an bình. Con tàu có thời gian, quá nhiều thời gian. Nhưng tôi gắng gạn đục khơi trong và phát hiện thấy một ưu điểm nho nhỏ. Ít ra thì thỉnh thoảng nó cũng bỏ qua một số nhà ga nhỏ, từ từ lăn bánh qua làng. Ngồi trong toa xe, tôi có thể quan sát những người đang làm việc trên đồng ruộng. Họ lao động cực nhọc dưới ánh nắng mặt trời chói chang, vụ mùa đã bắt đầu. Tôi đã mua một chiếc vé của toa hạng nhất. Cái toa xe này chắc chắn còn già hơn tôi một vài tuổi, nhưng nó rất sạch sẽ. Đồ đạc ở đây đều là kiểu cổ, không chiều chuộng người dùng như những loại đồ hiện đại. Cái ghế tôi đang ngồi dù được bọc đệm nhưng vẫn cứng như đá. Theo nhịp lắc của con tàu, thỉnh thoảng nó lại chồm lên một mỏm nhọn, tấn công không thương xót người trên. Tôi là khách duy nhất trong cả toa xe. Từ hành lang vẳng lại tiếng nói cười rất to của trẻ em. Cách đây hai ga tàu đã có rất nhiều trẻ em tan trường về trèo lên tàu và ngồi tản vào nhiều ngăn khác nhau. Tiếng nói cười trong trẻo thổi vào tâm trí tôi như một luồng gió mát. Tiếng cười đùa hồn nhiên thật hợp với một ngày mùa hè tuyệt đẹp như hôm nay. Mặt trời trên cao đang mạ vàng toàn bộ khung cảnh thiên nhiên. Bầu trời chỉ ra một màu xanh sâu thẳm. Thật ra mà nói, người ta chỉ có thể mừng vui và sung sướng. Phía bên ngoài vách cabin có thoáng một chuyển động. Tôi quay đầu sang trái và nhìn thấy khuôn mặt của hai đứa bé đang tò mò nhìn vào. Khi tôi vẫy tay về phía chúng, hai đứa bé cười phá lên rồi đột ngột rút lui. Tôi cười vui. Nụ cười vẫn còn đọng trên môi khi chỉ sau đó một chút, một người mặc đồng phục xuất hiện bên cửa vào ngăn xe, kiểm tra vé tàu. Tôi không thể nói chuyện với anh ta, bởi tôi không hiểu ngôn ngữ anh ta nói. Sau khi trời đã qua trưa, chúng tôi bắt đầu đi qua ranh giới nước Nga. Những đứa trẻ đã xuống tàu trước đó, và những người khách khác bước lên. Bây giờ tôi có người ngồi cùng ngăn, một người đàn ông bảnh chọe, giống một tay mafia xứ Sicilia hơn là một chàng trai Nga. Khi thấy tôi hiểu quá ít tiếng Nga, anh ta quay sang nói tiếng Anh. Vậy là chúng tôi nói chuyện được với nhau. Tôi được biết anh ta là người bán hàng rong, anh ta kiếm ăn bằng cách dụ dỗ người khác mua mọi thứ mỹ phẩm mới mẻ của Tây phương, những món đồ thật ra chẳng ai cần tới. Anh ta thậm chí còn giở vali ra khoe với tôi. Vali đựng toàn hàng mẫu. Những món hàng xanh đỏ tím vàng trong đó trông cũng hấp dẫn, chỉ có điều chúng là những nhãn hàng rẻ tiền nhất, bốc lên mùi khó chịu. Có lẽ anh ta đang kiếm được nhiều tiền lắm, và ban thân con người anh ta cũng bốc lên đủ mọi mùi khác nhau. Chắc anh ta đã lấy từng lọ ra và tự thoa một chút lên da mình. Qua hai ga tàu nữa, người bán hàng rong rời tàu. Trước khi xuống, anh ta còn quay lại soi gương và đưa tay vuốt lại bộ ria mỏng như hai vạch mực sát làn môi trên. Rồi anh ta ngoái lại giải thích rằng chỉ một nửa tiếng nữa là tôi sẽ tới đích. Câu nói của anh ta an ủi tôi phần nào. Bởi dần dần, chuyến đi lắc lư trên con tàu cổ vào buổi chiều hè cũng đã bắt đầu thành nhàm chán. Tôi hút một điếu thuốc lá, lại nhìn qua cửa sổ và thấy phong cảnh bên ngoài hầu như không thay đổi. Cả những con ngưỡi trông cũng giống nhau. Đàn bà mặc những chiếc tạp dề không tay, những làn khăn choàng đầu của họ bay trong gió mùa hè. Thỉnh thoảng, có những người đang làm dưới đồng ngẩng đầu lên vẫy tay với con tàu đi qua. Tôi thấy đói. Lúc xuống máy bay tôi có mang theo một chiếc sandwich. Nó bây giờ dĩ nhiên đã cứng khô lại. Miếng rau xà lách trong đó ngả màu nâu, chắc chắn chỉ có bọn lợn là ăn được. Tôi rút nó ra, nhét vào thùng rác rồi ăn phần bánh mì đã còn lại, không rau. Không thể nói là nó có mùi vị gì, nhưng chí ít ra thì nó cũng ngăn cơn đói. Ga tàu cuối trước khi về đích. Hai người đàn bà lên tàu. Hai bà nông dân với những cái lồng đựng gà. Họ không ngồi cùng với tôi. Tôi nghe tiếng họ chuyện trò không ngớt ở ngăn bên cạnh, và đám gà mái cũng kêu quàng quạc như thi đua với chủ nhân. Tồi trở nên tò mò khi con tàu dần dần giảm tốc độ. Cách đường tàu không xa mấy có hai cái hồ, một lớn và một bé. Giữa hồ lớn có một hòn đảo. Trên đảo là một cái gì đó u tối mọc thẳng lên trời cao. Khi tôi nhìn về hướng đó, không hiểu tại sao tôi thoáng rùng mình. Có lẽ bởi những mảng tường cũ kỹ không thích hợp chút nào với ánh nắng rực rỡ của buổi chiều nay. Tàu tiến vào ga. Slobicze. Mục tiêu của tôi đây rồi. Một cái làng có cái tên hầu như không thể phát âm nổi bằng cái lưỡi người Anh của tôi. Một nhà ga nhỏ xíu xuất hiện. Cả những cây cột đỡ lấy mái nhà cũng được làm bằng gỗ. Tôi đứng chờ sẵn bên cửa, nhìn ra ngoài. Vladimir Golenkov đã hứa đến đón tôi, nhưng cho tới nay tôi vẫn chưa nhìn thấy anh. Có lẽ tôi nhìn sót. Mặc dù khả năng này rất khó xảy ra, bởi thân hinh cao dong dỏng của chàng trai tóc vàng dù có đứng trộn lẫn trong một đám đông cũng sẽ nổi bật ngay. Tàu dừng! Tôi mở cửa và nghe một giọng nói lạ trong loa, thông báo một điều gì đó nhưng tôi không hiểu lấy một chữ. Ngoại trừ tiếng loa, toàn bộ nhà ga là một sự tĩnh lặng gần như ở nghĩa trang. Những con người đang đứng ở đây đờ đẫn như những con búp bê, kể cả những người đang ngồi ở ghế dài và nhìn buồn rầu về trước mặt. Chẳng có thời gian ngồi xuống ghế, tôi đứng trước khoang tàu và nhìn quanh nhiều lần, vẫn không phát hiện thấy dấu vết nào của Vladimir. Phải chăng anh không ra được, hay anh không muốn ra? Chẳng phải tôi đã nổi giận, nhưng thật cũng đáng bực mình. Hơn thế nữa, tôi chẳng biết phải đi về đâu. Mặc dù Vladimir đã nhắc tới một người quen là Oleg Blochin, nhưng tôi không biết anh ta sống ở đâu. Tôi nhìn xuống đồng hồ. Con tàu rít lên một tiếng còi chát chúa, bắt đầu rời ga. Tôi đâu có tới quá sớm, chắc chắn là muộn chừng hai mươi phút. Lẽ ra Vladimir phải đợi được chứ. Nỗi bực dọc biến mất, nhường chỗ cho một niềm lo lắng không tên. Suy cho cùng, giữa thời điểm anh gọi tới London và sự xuất hiện của tôi ở cái làng này đã có không ít giờ đồng hồ trôi qua, đủ cho không biết bao sự kiện khác nhau đố tới. Tôi nhận thấy những người ở đây đang nhìn tôi chăm chú. Ánh mắt họ rõ là đang cháy lên sau lưng tôi. Người ở đây không quen có người lạ bước xuống từ trên tàu. Làm gì đây? Tôi chẳng muốn tiếp tục đứng trên nhà ga nữa. Nghiến răng nuốt xuống một câu rủa, tôi cầm vali lên, bước đi. Tiếng Nga của tôi thật tệ, nhưng chắc cũng vừa đủ để hỏi đường đến nhà Oleg Blochin. Trước cửa ga có đậu một vài chiếc xe cũ, nhãn hiệu Đông Âu. Dĩ nhiên làng quê hẻo lánh này chẳng bao giờ có taxi. Bởi chỉ sau vài tháng hoạt động là chủ nhân của nó chắc chắn sẽ chết đói vì thiếu khách hàng. Đây là nơi người ta có thể đi bộ mà giải quyết mọi việc. Chẳng còn tâm trí để ý đến khung cảnh xung quanh, cảm giác bất an trong tôi mỗi lúc một dâng cao. Chỉ sau vài bước chân, tôi tin chắc mình đã tới quá muộn, và không hiểu tại sao tôi thấy mình bị đẩy vào cảnh vô phương. Tôi phát hiện thấy một người đàn ông già nua đang đứng cạnh chiếc xe và nhìn về hướng tôi. Tôi đi thẳng về phía ông. Ánh mắt bên dưới vành mũ trai nhìn tới trong vẻ nghi ngờ khi tôi dừng lại trước mặt ông, cất tiếng chào. Ông ta chỉ gật đầu. - Oleg Blochin? Ở đâu?… – Tôi hỏi. Ông già đưa một bàn tay lên vành tai bên trái, tôi nhắc lại câu hỏi. Thế rồi ông ta lên tiếng, nói liến thoắng. Tôi chẳng hiểu một lời nào, chỉ biết nhún vai. - Tôi muốn tới đó. - Đến chỗ Blochin hả? – Người đàn ông đột xoay sang nói tiếng Đức. Chắc chắn ông ta là người gốc Đức. May quá, bây giờ thì tôi biết cách trả lời. - Vâng, anh ấy đang chờ tôi và tôi cứ tưởng anh ấy hoặc bạn của anh ta là Vladimir Golenkov sẽ tới đây để đón tôi. Nhưng mà… - Vladimir, người lạ mặt phải không? - Vâng, ông có biết anh ấy không? Ông nhìn thật sâu vào mắt tôi, gật đầu, giơ tay làm dấu thánh giá rồi giải thích đường cho tôi tới đó. Khi tôi mở miệng muốn cất lời cảm ơn thì ông già đã bỏ đi thật nhanh. Cả cuộc gặp gỡ này cũng khiến cho cảm giác bất an trong người tôi không giảm đi chút nào. Chuyện gì đã xảy ra ở đây? Chắc chắn là ông già biết những việc mà Vladimir Golenkov đã nhận lời thực hiện. Trong một cái làng như thế này, những chuyện như vậy sẽ lan nhanh như gió thổi. Dù sao chăng nữa cũng phải tìm cho ra sự thật. Tôi cất bước về hướng nhà Oleg Blochin. Trên bầu trời Slobicze, những đám mây u ám vô hình như đang từ từ tụ lại… Vladimir Golenkov chẳng phải chỉ có một giấc ngủ nặng nề mà còn gặp một giấc mơ u ám. Vì thế mà khi tỉnh dậy, anh thấy người đau như bị tra tấn. Chỉ riêng viễn cảnh không được đón anh bạn John Singlair là khiến cho anh nuốt được câu rủa vừa muốn bật ra từ đầu lưỡi. Vladimir ngồi lại một lát trên giường, nhìn trân trân vào trống vắng. Đầu anh đau như có ai cầm búa gõ. Những cảnh nhỏ từ giấc mơ hôm qua nhảy múa như những vệt ma trước mắt anh. Thoáng hiện rồi thoáng ẩn, đến độ Vladimir chẳng còn nhớ được chi tiết nào cụ thể. Mà như vậy cũng tốt, nếu không thì trong người còn khó chịu hơn nữa. Chàng thanh niên đứng dậy. Căn phòng nồng nặc mùi hơi thở của anh. Chai rượu đứng cạnh giường. Anh cất nó vào tủ, mở cửa sổ ra và mừng vui khi thấy làn khí trong lành từ bên ngoài ùa tới, tràn sâu xuống hai cánh phổi của mình. Đó là một luồng không khí tuyệt vời, vẫn còn chưa bị mặt trời đốt nóng, nó mang hơi ẩm của sương mai, mang hơi ẩm từ cái hồ nước và thổi qua ngôi làng, vuốt ve khuôn mặt anh. Đứng ở đây anh cũng nhìn ra được phía hồ, nhưng chỉ thấy một phần mặt nước. Hòn đảo nằm ở góc khuất. Nghĩ tới nó, Vladimir bất giác mím môi. Hồi ức bật dậy trong anh, hai con mắt anh đột ngột cháy buốt lên, anh nhớ đến con quái vật và lưỡi kiếm cong của người đàn bà mà anh đã thấy trong một thoáng dưới quầng sáng của cây đèn pin. Có phải đó là người đàn bà bị nguyền rủa, như anh ban Oleg khẳng định? Nghe hoàn toàn có vẻ mập mờ. Nhưng một điều chắc chắn là Người Sói khổng lồ đó có tồn tại, anh cần phải cẩn thận đề phòng. Chính nó đã giết chết trọn một gia đình trong làng. Vladimir không biết Oleg thường thức dậy lúc nào. Anh muốn đi tắm nước lạnh cho sạch sẽ, anh đã đổ mồ hôi như suối suốt đêm. Khi nghĩ đến thứ nước lạnh gần như băng, chàng trai bất giác rùng mình. Nhưng không còn cách nào khác. Anh biết, khăn tắm thường để trong khu vực chứa đồ vật. Chỉ mặc quần áo ngắn, chàng trai đi xuống tầng dưới. Ngôi nhà yên tĩnh. Chắc Oleg vẫn còn ngủ, nhưng anh không nghe thấy tiếng động nào của Irina, vợ anh ta. Vladimir mới chỉ nghe thấy Oleg nhắc tới cô ta, nhưng anh chưa thấy mặt Irina, một điều rất đáng ngạc nhiên. Vị khách thậm chí còn thấy đây là chuyện bất bình thường so với thói quen hiếu khách của người dân Nga. Có vẻ như Oleg Blochin muốn giấu vợ trước mặt bạn. Vladimir không thể tưởng tượng ra một lý do cho hành động đó. Khi anh bước chân vào khu tắm giặt, đầu óc anh vẫn còn chìm rất sâu trong những băn khoăn về Irina. Cánh cửa kêu lên khi anh mở ra. Không khí lạnh khiến anh rùng mình, nhưng đành phải bước vào thôi. Đây là làng quê, dân ở đây đều tắm nước lạnh. Hai chiếc bồn lớn được xây bằng xi măng đứng sát nhau. Chúng cũng thường được dùng để giặt quần áo. Có một khoảng tường lửng màu xám ngăn ở giữa. Anh mở cho nước chảy ra. Lạnh như băng, nước sủi bọt lên trong cái bồn hình vuông có mặt nền xi măng sù sì. Da của Vladimir vẫn cứ tiếp tục rởn lên, nhưng bây giờ chàng trai đã để cho nước chảy trên hai cánh tay trần để quen dần với cái lạnh. Chỉ sau đó một chút, anh bước vào bồn và có cảm giác như mình đang va thân vào giữa những tảng băng, những tảng băng đang từ bốn hướng đè lên cơ thể anh. Vladimir ngộp thở. Khi hít hơi vào, anh run rẩy toàn thán, hai hàm răng đánh lập cập. Nhưng rồi cơ thể anh cũng quen với cái lạnh. Hơn nữa, anh đang vội, chàng trai nhanh tay xát xà phòng, ngụp người xuống dưới làn nước lạnh kỳ cọ thân hình rồi dùng chính loại xà phòng đó gội đầu. Khi bước chân ra khỏi bồn tắm và giơ tay với lấy chiếc khăn bông, Vladimir thật sự có cảm giác vừa được hồi sinh. Bây giờ anh thấy không khí trong tầng hầm là rất ấm áp và dễ chịu, anh dùng khăn bông chà thật mạnh lên khắp làn da, đến mức độ nó đỏ lửng lên ở rất nhiều nơi. Quá bận rộn với bản thân, Vladimir cảm nhận tiếng kẹt cửa như chỉ ở bên rìa. Nhưng bản năng cũng khiến anh giật mình và vội vàng quay người lại. Oleg Blochin đã mặc quần áo tử tế, đứng trong căn phòng và nhăn răng cười. - Thế nào, dậy rồi hả? Vladimir gật đầu. - Ôi trời, anh làm tôi sợ quá. Anh lẻn vào đây đúng như một tên trộm. - Đâu có đâu. Vladimir giơ khăn bông lau tóc ướt. Sau đó, anh dùng ngón tay chải tóc ra đằng sau, chui chân vào quần cộc rồi gật đầu với bạn mình. - Tình hình thế nào? Irina đã chuẩn bị đồ điểm tâm chưa? Blochin mỉm cười. - Có rồi, nhưng chắc hôm nay anh chưa gặp Irina được đâu. - Tại sao? Cô ta làm sao thế? - Cô ấy ăn rồi. - Ra thế? Blochin gật đầu. - Vợ tôi bao giờ cũng dậy rất sớm. Hôm nay là ngày chợ phiên. Cô ấy muốn đi mua hàng. Anh biết đấy, ra chợ muộn thì chẳng còn đồ gì ngon lành cả. - Thôi được, tôi đang đói đây. – Vladimir gật đầu nói – Mà ngoài ra, chiều hôm nay là John sẽ tới, chúng ta dứt khoát phải đi đón anh ấy. - Chắc chắn vậy. Blochin né sang một bên, nhường đường ra hướng cửa. Anh ta muốn để khách đi trước. Vladimir bước về hướng cầu thang. Anh cúi người xuống, bởi trần nhà ở đây quá thấp. Mặc dù vậy, trước khi bước chân lên được bậc thang đầu tiên, đầu anh vẫn bị đập thật mạnh. Mạnh đến nỗi Vladimir thấy một trời sao nổ bung ra trước mắt mình. Không thể như thế được, chàng trai thầm nghĩ, rồi anh rên lên và quay người lại. Mình đâu có đập đầu vào tường trần nhà, rõ ràng mình đã cúi đầu xuống… Anh nhìn bạn mình. Oleg bây giờ đứng trước mặt anh. Thân hình của anh ta trông mờ ảo và dài ngoằng như làm bang cao su. Vladimir nghe tiếng Oleg nói, giống như xin lỗi hay một câu tương tự. Thế rồi một vật thể tôi tối bay thẳng về phía anh. Một cây gậy gỗ, Vladimir ngạc nhiên nghĩ thầm. Thế rồi sau đó, anh không nghĩ được nữa, mà trôi tuột xuống vực thẳm vô tri vô giác. Anh gục xuống ngất trước bậc cầu thang đầu tiên. Oleg gật đầu vẻ hài lòng. Hắn khe khẽ nói : - Thế là xong việc thứ nhất… Một ngôi làng ở miền Tây nước Nga, quen thuộc như những hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy qua đài truyền hình. Trong ảnh trông nó bao giờ cũng rất thanh bình. Slobicze bây giờ có lẽ cũng thế, chỉ có điều tôi đã hết khả năng nhận xét khách quan, bởi ở đây tôi chính là chủ đề bị mọi người quan tâm, ở đây tôi là cái nhân vật đang bước chân sang một thế giới xa lạ. Cũng có thể coi dây là một ngôi làng thơ mộng, nếu đôi mắt tôi không phải chứng kiến vẻ nghèo nàn bày ra ở khắp mọi nơi. Nó hiện lên từ những ngôi nhà có mái hỏng lỗ chỗ bởi thiếu tiền sửa chữa. Người dân ở đây đã cố gắng chắp vá bằng mọi vật liệu có trong tay nhưng kết quả họ đạt được chẳng là bao. Đất ở đây còn trống nhiều chỗ. Ngôi làng đã được hoạch định tương đối rộng rãi, nhà nào cũng có một khoảng vườn riêng. Thường thì những khuôn viên được ngăn bằng hàng rào, nhưng cả chúng cũng đã phải chịu đựng hàm răng gặm nhấm của thời gian. Rào ở rất nhiều nơi đã đổ nát, nghiêng ngả hoặc gục hẳn xuống. Đất trong vườn được sử dụng cho mục đích tự cung cấp cho chính gia đình. Có cả chuồng nuôi súc vật. Nhiều lần tôi nghe thấy tiếng lợn ủn ỉn hoặc nhìn thấy gà chạy táo tác. Khung cảnh này vẫn còn chấp nhận được, nhưng có một yếu tố hoàn toàn khác khiến tôi đau xót. Có lẽ đó là cái không khí chung trong làng, một người lạ như tôi có cảm giác là nó quá nặng nề, đè nén. Toàn bộ dân làng không ai gây ấn tượng vui vẻ. Họ chuyển động với những bước chân chậm chạp, lê sệt, khuôn mặt họ gây cảm giác đóng kín, nghi ngờ, sợ hãi. Tôi nghĩ là tôi biết nguyên nhân. ơ làng này đã có bốn con người bị một con quái thú giết chết, làm sao mà người dân có thể vui vẻ được trong tình huống đó. Sự kiện đẫm máu đã đè nặng lên tâm trí họ, biến họ thành buồn rầu hoặc thậm chí trầm cảm. Dĩ nhiên, tôi thu hút sự chú ý của họ. Những ánh mắt thầm lén hướng tới. Tôi làm ra vẻ không để ý. Cầm cái vali nho nhỏ của chàng trai độc thân bên tay phải, tôi tiếp tục đi theo lời chỉ dẫn của người đàn ông già bên nhà ga. Đi dọc theo con đường chính không trải nhựa đường của làng, tôi rẽ phải khi gặp một cây bồ đề sần sùi, dưới bóng mát của nó có để một vài chiếc ghế băng. Một vài người già đang ngồi ở đó, lờ đờ nhìn vào ánh sáng ban ngày. Con đường dẫn tôi đi lên hướng Bắc. Đó cũng là nơi có hai chiếc hồ, một lớn một bé. Đứng ở đây không nhìn thấy chúng, nhưng thay vào đó tôi phát hiện một ngôi nhà đứng cúi lom khom có mặt tiền màu trắng, mái màu xám và một chái xây thêm nho nhỏ. Mục tiêu đây rồi! Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa thấy dấu vết gì của Vladimir. Nỗi lo âu mỗi lúc một lớn hơn, tôi hy vọng Oleg, chủ nhà của Vladimir, sẽ có thể giải thích về sự vắng mặt này. May mắn làm sao, Oleg Blochin chắc chắn hiểu ngôn ngữ của tôi. Ngày trước anh làm cùng cơ sở với Vladimir, và chương trình đào tạo của cơ quan KGB vốn nổi tiếng là rất tốt. Cỏ mọc um tùm trước nhà. Nhìn như thể nó đã bị dán chặt vào tường. Ngôi nhà cũng có một khoảng vườn. Chỉ có điều nó không có rào. Cửa vào nhà đang mở. Nó được xây thụt vào trong, tạo thành phần cuối của một hốc tường lớn. Một người đàn ông bước ra từ bóng tối của hốc tường đó. Chắc chắn đây phải là Oleg. Tôi dừng lại, đặt vali xuống. Người đàn ông tóc đen với chòm râu màu nâu và mái tóa xoăn rối tít vừa mỉm cười vừa gật đầu với tôi. - Oleg Blochin phải không? – Tôi hỏi. - Vâng. – Anh ta đi tiếp, đưa tay cho tôi bắt – Anh chắc là John Singlair. - Đúng. Chúng tôi bắt tay nhau, và một nụ cười thoáng lướt qua khuôn mặt Blochin. - Tôi rất mừng được gặp anh ở đây, John. – Anh ta nói một thứ tiếng Anh rõ ràng – Anh bạn Vladimir đã kể rất nhiều về anh. - Thế thì tốt. Nhưng đó chính là người tôi đang tìm đây. Vladimir đã hứa sẽ đến đón tôi ở nhà ga. - Tôi biết. - Tại sao anh ta không tới? Blochin hắng giọng, một cử chỉ gượng gạo. - Ta vào nhà trước đã. – Anh ta đề nghị. Phản ứng của anh ta không thoát khỏi cặp mắt tôi. Có cái gì đó đã xảy ra với Vladimir. Tôi đoán Oleg muốn tranh thủ thời gian. Khuôn cửa vào nhà rất thấp. Tôi phải cúi rạp người xuống mới bước được vào trong. Không khí bên ngoài rất ấm áp, vì thế mà tôi cảm thấy dễ chịu với không gian lành lạnh giữa những bức tường. Chúng tôi đi vào một ngăn bếp lớn, vẫn còn được đun bởi một lò than như ngày xưa, bên cạnh đó là một lò sưởi khổng lồ. Phòng bếp chắc chắn phải là căn phòng lớn nhất nhà. Nó đủ chỗ cho một chiếc ghế dài, nhiều chiếc ghế ngắn và một chiếc bàn. - Mời anh ngồi, Singlair. - Anh cứ gọi là John cũng được. - Cám ơn! Anh ta hỏi tôi về thức uống. Tôi quyết định dùng một thứ nước hoa quả nhà tự làm. Mặc dù tôi không nhìn thấy tủ lạnh, nhưng thức uống được đưa ra vẫn rất lạnh. Nước uống mang đậm hương vị của cỏ dại và dâu rừng. Nó xóa tan cơn khát, và chỉ sau khi tôi tỏ vẻ đã hơi thoải mái, Oleg mới ngồi xuống bên cạnh bàn đối diện. Gương mặt anh ta bây giờ mang dáng vẻ buồn rầu và sợ hãi, khiến nỗi âu lo trong tôi càng ngóc đầu dậy. Tôi đưa ra câu hỏi quyết định. - Tôi có thể tìm Vladimir ở đâu? - Không phải ở đây, John! - Điều đó tôi biết rồi. Nhưng ở đâu? - Tôi không thế nói được. Đã tính đến khả năng phải chấp nhận câu trả lời này, nhưng tôi vẫn khô