later bắt đầu toát mồ hôi dữ dội. Slater cố gắng nén đi cảm giác nghẹt thở, rồi đến phòng làm việc, chạy giữa hai hàng áo giáp trong một hành lang chật hẹp. Cửa văn phòng khoá. Slater mở ra, bước vào và thoáng cảm thấy nhẹ nhõm. Bộ áo giáp gôtic đen thời 1460, mà đại tá de Kalb đã tặng cho Slater để cảm ơn công lao trung thành của Slater, vẫn còn đứng trong góc phòng, cạnh bàn viết. Bộ áo giáp như đang nhìn Slater qua khe mắt. Hai bàn tay Slater sờ soạng khắp bàn viết như hai con chim đỏ. Không có thư nhắn của đại tá. Bàn viết vẫn y như lúc Slater về sáng thứ bảy. Slater hấp tấp chạy ra, leo lên một cầu thang xoắn ốc, trở xuống một tiền sảnh khác hơi tối, gõ vào cửa gỗ sồi hai cánh dẫn vào phòng làm việc của đại tá, gõ khẽ mặc dù đang hoảng hốt. - Vào đi! Một giọng khàn khàn trả lời, không phải giọng đại tá de Kalb. Slater bước vào, khép nhẹ cánh cửa lại, nhìn khắp phòng, nhìn các tấm lát tường bằng gỗ sồi đánh bóng, nhìn các dãy kệ sách, các tấm vải treo tường, nhìn những vách tường có treo kích, dao găm, mã tấu, mâu, thanh lao, ngọn giáo có trang trí lông vũ và chùy lởm chởm mũi nhọn. Slater sửng sốt thấy ngay giữa phòng một người khổng lồ hai tay áo sơ mi xắn lên trong tư thế người chơi gôn, tay cầm gậy đánh gôn. Người đàn ông này chỉ liếc nhìn Slater thật nhanh, vì đang bận đánh banh vào lỗ hở của cái mũ chiến không có lưỡi trai đặt dưới đất. - Anh là Slater phải không? Người đàn ông nói. - Đúng, Slater trả lời. Slater càng thu mình lại hơn nữa trước vóc dáng đồ sộ của người đàn ông trông như cựu vô địch bóng đá. Người này cân nặng ít nhất một trăm hai chục ký và cao gần hai mét. Slater tự giới thiệu: - Tôi là Morris Slater, thư ký của đại tá de Kalb. Rồi Slater nhìn hai cổ tay của người khổng lồ đang cầm gậy gôn – những cổ tay to bằng chân của chính Slater – với các ngón tay phủ đầy lông đen, gương mặt vuông vức như hình dáng, tóc mọc sát xuống trán… - Còn tôi là Joe Scudmore. Chắc là anh đã nghe nói đến chúng tôi rồi chứ. Chúng tôi có mặt ở đây vì việc cầm cố của đại tá. - Tôi cần gặp đại tá de Kalb, ngay lập tức. Scudmore đánh một quả banh khác. Banh lăn trên thảm, ngoan ngoãn rơi vào cái miệng há to của chiếc mũ chiến. - Westside Chapel, Scudmore nói. Đại tá sẽ ở đó cho đến sáng mai. Scudmore quay lại trong khi cổ họng của Slater thốt ra một âm kỳ lạ. - Xin lỗi anh bạn, nhưng tôi tưởng anh đã biết chuyện. - Biết chuyện gì? Slater hỏi. - Bộ anh không đọc báo sao? Anh không xem truyền hình sao? Slater lắc đầu từ từ, vẫn nhìn chằm chằm gương mặt to rộng của Scudmore. - Phải, lão già tội nghiệp bị cơn nhồi máu cơ tim và chết hôm chủ nhật, lúc khoảng một giờ sáng. Slater ngã sụp, gần như biến mất, xuống một ghế bành bằng da đen. Scudmore nhắm một quả banh thứ ba, chỉnh tư thế lại. - Xin chia buồn cùng anh. Tôi hiểu đây là cú sốc đối với anh. Anh làm việc cho đại tá từ mười ba năm nay, đúng không? - Gần mười bốn năm, Slater trả lời bằng một giọng xa vời. - Vậy anh uống một ly đi, Scudmore vừa nói vừa vẫy tay về hướng một chai whisky trên bàn viết. Lão già trữ rượu ngon lắm! - Cám ơn, tôi không quen uống rượu, Slater nói. Slater nhìn chằm chằm một hồi quả banh lạc trên thảm, rồi đột ngột quay đầu đi. Vách tường mà Slater đang nhìn nhoà đi. Cuối cùng, Slater hỏi không rõ: - Thế còn bây giờ, thưa ông Scudmore? - Bây giờ hả? Scudmore quay lại, chau mày nhìn kỹ Slater. - Anh bạn này, anh đừng buồn. Có gì phải lo đâu? Sau khi làm việc cho một người như đại tá de Kalb, anh có bao nhiêu kinh nghiệm. Ngày mai, anh ghé qua ngân hàng đi, thế nào chúng tôi cũng tìm ra một chỗ cho anh mà! - Bộ sưu tập riêng của đại tá! Họ mang đi tất cả! Slater rên rỉ. Scudmore đá một cú vào mũ chiến, khiến cái mũ sắt lăn trên thảm, va vào tường. Rồi Scudmore tự rót thêm một ly whisky mới, đứng đó tò mò quan sát Slater. - Ừ, bọn tôi làm việc nhanh lắm! Scudmore hít thở thật sâu, ra cửa sổ nhìn ra ngoài. - Hai tuần nữa sẽ dọn xong đống đá cũ mốc này. Slater à, anh có biết cái gì sẽ mọc lên chỗ này không? Một cao ốc căn hộ hiện đại. Ba mươi lăm tầng. Mỗi phòng tám chục đô-la. Có sân thượng riêng để tắm nắng. Còn ngay phía trên cùng là một siêu thị. - Nhưng đại tá de Kalb đâu muốn thế! Scudmore từ từ quay lại, nhíu mày: - Chuyện gì nữa đây? - Đại tá đã nói điều này với tôi nhiều lần, ông Scudmore à. Đại tá muốn nhà này trở thành viện bảo tàng. Và tôi… tôi sẽ quản lý nhà bảo tàng. Scudmore đi vòng qua bàn viết, đến gần Slater. - Tôi rất mến đại tá, Scudmore nói. Nhưng lão là một người kỳ quặc. Anh có hiểu ý tôi không? Say mê mấy thứ thời trung cổ. Ngày nay ai thèm quan tâm nữa? Ta hãy nhìn thẳng vào sự việc: nếu mở viện bảo tàng ở đây, thì sẽ có bao nhiêu thằng khùng đến tham quan? Chắc chắn là sẽ không có ma nào! Thật là phí! Sẽ nhanh chóng phá sản thôi! - Nhưng không đời nào đại tá lại muốn như thế, Slater la lên. Slater tháo mắt kính ra chùi. - Những gì anh làm thật là thô lỗ và đáng xấu hổ, Slater nói thêm rồi quay đầu đi. Gương mặt to tướng của Scudmore chuyển đỏ. Scudmore lùi lại, tựa vào bàn viết. - Tôi hiểu, Scudmore nói, tôi hiểu rằng anh mất một miếng rất ngon tại đây. Có phải ý anh nói vậy không? Hoảng sợ vì đã không kiềm mình, Slater nói tiếp bằng một giọng phục tùng trở lại: - Đúng, đúng, thưa ông Scudmore! Tôi rất thích công việc ở đây. (giọng Slater hơi nghẹn ngào.) Đó là cả cuộc đời tôi. Scudmore uống một hớp hết ly rượu, với một vẻ thản nhiên. - Anh bạn ơi, chuyện đó dễ thương lắm, nhưng phải suy nghĩ thực tế một chút chứ. Hai hécta đất ngay giữa trung tâm thành phố! Lãng phí tiền thuê để khu đất này lên mốc lên meo chỉ vì đông sắt cổ như thế thật là ngu xuẩn! Anh phải hiểu sự thật chứ. Slater không dám có lời nhận xét nào. Scudmore uống thêm một ly. Mặt mày đỏ gay, Scudmore đi đi lại lại trong văn phòng, trong tình trạng phấn khởi tột độ, rõ ràng rất tự mãn. - Tôi đã khổ công lắm, anh bạn à, nhưng tôi đã cho chất xám làm việc. Tôi đoán trước rằng lão đại tá sẽ không còn sống bao lâu, nên tôi đã tiến hành moi thông tin cô con gái lão. Anh biết không, lão để lại hết cho con gái. Lão đại tá không hề viết di chúc giấy trắng mực đen rằng ngôi nhà này phải trở thành viện bảo tàng. Lão chỉ muốn con gái được thừa hưởng ngôi nhà, anh có hiểu không? Lão để cho con gài tùy ý hành động: lão tưởng rằng con gái nghĩ giống lão về chuyện bảo tàng. Scudmore lại chụp lấy chai whisky. - Slater à, thật ra, cô con gái bị nổi da gà trong căn nhà này. Có bao nhiêu người cha thật sự hiểu con mình? Anh thử nghĩ xem! Khi tôi nói với cô gái kia một toà nhà ba mươi lăm tầng với siêu thị trên cùng sẽ mang lại bao nhiêu lãi, thì không còn chuyện bảo tàng nữa. (Scudmore phá lên cười.) Đúng, hoàn toàn không còn chuyện đó nữa! - Tôi hiểu rồi, Slater nói rồi đứng dậy. Bàn tay to của Scudmore xà xuống vai ông thư ký, trong khi ông đi ra cửa. - Phải suy nghĩ như thế đấy, anh bạn ơi! Phải tiến theo thời đại mình chứ! Ngày mai, anh cứ ghé qua ngân hàng gặp tôi. Thiếu gì việc làm, kể cả đối với với một người có kinh nghiệm như anh. ° ° ° Ngồi trong văn phòng nhỏ của mình ở tầng dưới, Slater hoài công cố không nghe tiếng ồn ào khó chịu xuất phát từ tầng trên đang bị giao cho sự tàn phá phạm thượng của đám công nhân dọn nhà. Slater cảm thấy kiệt sực, thần kinh sắp suy sụp; Slater cảm giác như có luồng gió lạnh thổi xuyên qua mình. Mỗi cú búa gõ làm Slater giật mình, như thể bị giật điện. Và tiếng ồn cứ tăng dần, tạo cho Slater cảm giác đang ở trong một toà nhà to lớn sắp sụp đổ. Đột nhiên Slater cảm thấy cô đơn khủng khiếp và gọi điện thoại về nhà. - Selma hả? - Anh Morris ơi, anh bệnh hả? Anh bị cảm lạnh rồi hả? Đây là lần đầu tiên, Slater gọi điện thoại về cho vợ trong ngày. - Selma ơi, đại tá de Kalb chết rồi. Hôm sáng chủ nhật. - Sao! Ôi! Anh yêu!… - Và đại tá đã không… ý anh nói ngôi nhà sẽ không trở thành nhà bảo tàng. Người ta đang dọn dẹp mọi thứ đi. - Mong sao Chúa phù hộ cho linh hồn đại tá! Đại tá là người rất tốt. Nhưng theo một kiểu, thì em rất mừng! - Kìa Selma! - Từ nay anh sẽ về nhà đúng giờ hơn, anh sẽ sống như một người bình thường, có việc làm đàng hoàng. Em đã chán có chồng là một cái bóng rồi. Trước khi gác máy xuống, Slater nghe tiếng kính vỡ phía trên lầu. Có lẽ là một tủ kính, có lẽ tủ chứa bộ sưu tập dao găm. Và bộ áo giáp gôtic năm 1460 như bắn những ánh nhìn buộc tội đến Slater qua khe mắt đen. Slater đứng dậy, đến ngồi cạnh bộ áo giáp, nhìn thẳng vào mắt bộ áo giáp. Suốt một hồi, Slater không nghe tiếng động nào. Sự im lặng dễ chịu này khiến Slater nhớ lại lúc Slater đã ngồi xuống lần đầu tiên bên bộ áo giáp này, mười bốn năm trước đây, khi Slater bắt đầu làm việc cho đại tá de Kalb. ° ° ° Morris Slater có một đặc tính chung cho tất cả những kẻ sát nhân: trông Slater như không thể nào dùng đến bạo lực, kể cả bạo lực dưới hình thức nhẹ nhất. Lúc mười bốn tuổi, Slater cao một mét năm mươi và cân nặng năm mươi hai ký. Từ đó, ba chục năm đã trôi qua mà trong đời Slater không có sự kiện quan trọng nào khác ngoài việc tăng cân một ký và thấp xuống nửa phân. Slater không những nhỏ mà còn gầy yếu – gần như mảnh yếu như một chú chim, với làn da mỏng đến nỗi lộ rõ gân. Slater ăn mặc sạch sẽ nhưng theo một cung cách tẻ nhạt khiến như hoà lẫn vào những gì nằm xung quanh. Cách nói chuyện của Slater cũng bình thản và kín đáo. Một từ có thể xác định nhân cách của Slater: thận trọng. Không một ai nghi ngờ Slater che giấu tính khí thật của mình. Người mẹ quá cố của Slater có thể nói về vài cơn bạo lực của con trai lúc còn nhỏ. Nhưng không bao giờ có ai quan tâm đến Slater, cả lúc còn nhỏ. Bạn bè cùng trường, từng tiễn cậu bé Slater chảy máu mũi về nhà cùng tiếng la ó trêu chọc, có thể kể lại những cơn thịnh nộ tức giận bất lực của Slater chống lại sự nhục nhã. Nhưng ai thèm đi hỏi lời chứng của chúng? Vợ của Slater, cao lớn và mạnh mẽ hơn Slater, đã lấy Slater chỉ vì khiếp sợ đàn ông to con. Và chính Slater cũng cảm thấy an tâm trước hình dáng đồ sộ hơn của vợ. Bà vợ biết những cơn thịnh nộ đôi khi xảy ra của chồng nhưng chỉ cười: bà biết những cơn giận này vô hại. Khi bà vợ nhận thấy sắp có triệu chứng của một cơn giận, bà chỉ đẩy Slater xuống tầng hầm, khoá cửa thật kỹ nhốt dưới đó. Còn lại một mình, Slater ném xuống đất hoặc đá văng những đồ vật mà Selma đã cố tình để đó; bởi vì bà rất giỏi tìm đủ thứ cách để trấn an chồng. Thế là Slater sống tách biệt một thế giới mà ông hận thù, mà dần dần ông đã đi đến mức căm ghét và sợ nó. Slater không chịu thích nghi với một nền văn minh có các giá trị được biểu trưng bởi toà Empire State Building và những phát minh mới nhất của General Motors. Nhưng khi Slater đến làm việc ở nhà đại tá de Kalb, một tấm màn đã rơi xuống giữa quá khứ và chính ông. Cuối cùng Slater sẽ được biết một cuộc sống mới, một cuộc sống hạnh phúc. Ngay từ ngày làm việc đầu tiên ở nhà riêng của đại tá, Slater kiểm kê tất cả những gì chứa trong nhà. Ông đã đứng cạnh bộ áo giáp gôtic năm 1460 và nhanh chóng nhận thấy rằng chiều cao của khối sắt đáng sợ đó chỉ vượt hơn chiều cao của chính Slater có hai phân. Phản ứng đầu tiên của Slater là cho rằng bộ áo giáp là đồ giả. Slater đặt câu hỏi đại tá và đại tá trả lời: - Anh hãy nhìn các bộ áo giáp khác. Ngoại trừ vài trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, người thời đó rất nhỏ, nhất là người Pháp và người Ý, là những người đã chế tạo ra phần lớn các bộ áo giáp này. Tôi nghĩ trung bình họ không cao quá một mét năm mươi. Còn phụ nữ còn thấp hơn nữa. Nếu anh nhìn được họ tập trung ở Triều Đình, có thể anh sẽ tưởng họ là người lùn. Slater hân hoan trở về phòng trưng bày các bộ áo giáp. Slater tiến hành xem xét thật kỹ từng bộ áo giáp, bắt đầu từ bộ áo giáp cổ xưa nhất, một bộ áo giáp thời hậu La Mã năm 650. Rồi đến phiên bộ áo giáp dân tộc Franc năm 850, bộ áo giáp Roman năm 1050, áo giáp lưới sắt năm 1250, bộ áo giáp chuyển tiếp năm 1350, những đồ vật năm 1440 và 1460, đến bộ áo giáp của hoàng đế Maximilien, và hai bộ mới nhất – một bộ áo giáp trọn vẹn năm 1535 và một bộ áo giáp bán thân năm 1650. Ngoại trừ hai bộ, Slater có thể mặc bất cứ bộ áo giáp nào, như thể áo đã được rèn riêng cho Slater! Vào thời đại hạnh phúc đó, người cao lớn gần giống như một con thú kỳ lạ! Có thể khẳng định rằng từ lúc đó, Slater sống một cuộc đời hạnh phúc thích hợp với nhân cách, mặc dù hoàn toàn phụ thuộc vào đại tá de Kalb. Suy nghĩ hận thù và cay đắng nhường chỗ cho sự chấp nhận số phận. Chỉ là do Slater ra đời quá trễ vài thế kỷ, thế thôi! Thời xưa, Slater có thể là một vị anh hùng, một hiệp sĩ điển hình, một nhà vô địch cưỡi ngựa thi đấu thương… Slater có thể đấu giáo với những người giỏi nhất rồi được người hát rong ca ngợi chiến công thi đấu trong những bản hùng ca. Dù sao, Slater vẫn trở thành nhà vô địch quản lý viện bảo tàng. Chẳng bao lâu, từng bộ phận áo giáp sáng bóng như crôm đánh bóng. Không thể tìm ra một hạt bụi. Những bản lề hay dây cu-roa hư được thay thế hết sức kỹ lưỡng, để sao cho giống y bản gốc. Nước gỗ dùng để thay những phần bị mục của báng súng bắn tên cũng giống y gỗ cũ. Slater chà bóng phần sắt của các cây giáo và lưỡi gươm thời năm 200 trước công nguyên. Rồi Slater treo vào các tấm trải tường Pháp những tấm chắn da dạng: khiên hình ê-líp, khiên tròn có mũi nhọn… Sự thật đương thời không còn làm cho Slater đau khổ nữa. Ngoài những chuyến đi hằng ngày bằng xe buýt để đi làm, ngoài vài buổi tối và ngày chủ nhật ở cùng Selma, thế giới hiện đã không còn tồn tại đối với Slater nữa. Slater không hề ngần ngại làm thêm ngoài giờ. Selma thường gọi điện thoại khuya để buộc chồng phải về nhà, và những ngày chủ nhật bà cũng phải ép buộc chồng ở nhà. Selma đã nhanh chóng cảm thấy rất ganh tị và gớm ghiếc các bộ áo giáp. Và dĩ nhiên là Selma cấm không cho chồng nói gì đến Lịch Sử – trừ phi là chuyện xảy ra sau lần cuối cùng Selma đi thăm bà chị Blanche. Nhưng đại tá thì lại rất thích thú với nỗi đam mê của ông thư ký và đã tặng cho ông thư ký bộ áo giáp gôtic năm 1460. Slater không bao giờ mang bộ áo giáp về nhà. Bởi vì Selma sẽ không cho đặt ở nơi nào khác ngoài tầng hầm – mà đó rõ ràng là một nơi quá ẩm ướt đối với một bộ áo giáp gôtic thời 1460. ° ° ° Đến hai giờ chiều, Slater leo lên cầu thang, bước vào phòng làm việc cũ của đại tá de Kalb mà không thèm gõ cửa. Scudmore đang ngồi trong đó, hai chân gác trên bàn viết, tay phải cầm chai whisky. Trông hắn y như một nhân vật quan trọng đang say rượu. - Anh không thể để họ làm thế! Slater kêu bằng một giọng nghẹn ngào. - Anh bạn mà dám nói thế à! Anh có thể đứng lọt trong lòng bàn tay họ! - Anh phải bắt họ ngưng tay ngay. - Thôi, uống một ly đi, đừng kêu ca nữa. - Tôi không thể khoanh tay đứng đó nhìn họ làm. Họ đang đập phá, làm hỏng tất cả. - Đập phá hả?… Đập phá cái gì? - Họ cứ vứt mọi thứ lộn xộn xung quanh, họ làm vỡ những đồ vật quý, họ làm lộn xộn các bộ phận. Họ khuân vác dưới trời mưa, mọi thứ sẽ bị rỉ mất. Scudmore cười khúc khích. - Đồ cổ, đúng không? Thì sẽ có giá hơn. Cũng giống như người ta khoét lỗ vào gỗ để người khác tưởng gỗ bị mọt ăn! - Họ không có quyền phá hủy tất cả… - Đó là do họ rất vội. Họ cứ đòi trả thù lao theo giờ, nhưng tôi đã nói: không được đâu nhé! Các anh sẽ lãnh thù lao khoán cho toàn bộ công việc, và đống này phải ra khỏi đây trước năm giờ! - Vậy anh hãy bảo họ làm việc đàng hoàng. Tôi xin anh, anh Scudmore ơi, ít nhất anh hãy bảo họ như vậy dùm tôi. - Này, anh có thôi quấy rối tôi nữa không đó? - Anh Scudmore ơi… - Tôi nói nghiêm túc đấy. Anh ra khỏi đây đi! - Tôi xin anh… - Thì bị trầy, bị móp một chút đã sao nào?… Mấy thứ đó bị đánh đập suốt mấy thế kỷ rồi mà. Càng tăng giá trị thêm thôi. Có một gã ở Canada chào tôi giá khá lắm. Uy tín nhà sưu tập của đại tá de Kalb đã đủ làm cho gã này quyết định. Không cần đến xem hàng! Ký hợp đồng, gửi ngân phiếu. Và gã đó sẽ nhận được tất cả những bộ phận đã đặt mua. Cứ việc xoay xở tự ráp lại lấy. Slater run lên. Giọng nói đã nhỏ xíu chỉ còn thều thào. - Anh Scudmore à, anh phải biết xấu hổ chứ. Tôi căm thù anh! Scudmore ngồi thẳng lên, đứng dậy, rồi đi vòng qua bàn, đến đứng ngay bên cạnh Slater, nhìn xuống: - Bực mình lắm rồi! Anh cút đi chỗ khác, nhanh lên! Chỉ cặp mắt xanh nhạt của Slater là để lộ một cảm xúc khác ngoài sự phục tùng, trong khi ông lùi ra cửa. - Anh là một người thô lỗ, Slater thì thầm. Vừa thô lỗ vừa ngu xuẩn. Scudmore phóng nhanh đến Slater, huơ nắm đấm lên. - Này anh bạn nhỏ, anh có muốn nếm thử cái này không vậy?… Muốn hả?… Slater hấp tấp mở cửa ra. Khi đã ra ngoài hành lang, Slater lắc đầu. - Không, cám ơn, anh cứ giữ lấy cho anh, Slater nói. Khi bước xuống cầu thang chìm trong bóng tối, Slater nhận ra, mà không hề cảm thấy bị sốc hay bị ngạc nhiên, rằng mình sẽ giết chết Scudmore. Mọi thứ diễn ra như thể Slater đã biết hắn từ lâu và đã quyết định hạ hắn từ lúc mới sinh ra. Mối bận tâm duy nhất của Slater là làm thế nào giết chết Scudmore mà chính mình không bị sao – và không bị bắt. Slater thản nhiên tìm gặp gã đàn ông mặc vét da đang đổ mồ hôi hột trong khi vứt mũ chiến vào thùng. - Đúng, gã đàn ông mặc vét da xác nhận. Phải giở xong lúc bốn giờ. Như vậy chúng tôi về kho bãi, đậu xe và chấm công đúng năm giờ. Chúng tôi thuộc công đoàn mà. Slater cũng phải làm xong mọi việc lúc bốn giờ. ° ° ° - Thì, tôi cũng không biết tôi có… vài phút sau gã đàn ông mặc vét da gãi đầu nói. - Bộ áo giáp này là của tôi, Slater bình tỉnh trả lời. Chẳng lẽ anh nghĩ tôi muốn lấy trộm nó à? - Đâu có, tôi không hề nói thế. - Muốn lấy trộm một cái gì đó, thì đời nào tôi lại công khai như thế. Còn anh? Mà ai lại thèm đi ăn trộm một đống sắt vụn? - Tôi chưa bao giờ nói anh định trộm gì… Slater rút bóp tiền ra, lấy vài tờ giấy bạc. Bây giờ, mỗi hành vi, mỗi từ mà Slater thốt ra làm gia tăng sự khoan khoái trong lòng. Trước kia, chưa bao giờ Slater dám đút lót hối lộ ai. Slater đưa hai tờ mười đô-la. Gã đàn ông mặc vét da đút vào túi, mỉm cười, và đột nhiên có vẻ sẵn sàng phục vụ Slater. - Bộ áo giáp trong văn phòng tôi, ở cuối hành lang. Tôi cần người của anh để mang đến đó một cái thùng. Cái thùng kia rất được. Bộ áo giáp không được tháo ra, mà phải đặt kỹ vào trong thùng. Rõ chưa? Gã đàn ông mặc vét da gật đầu. - Không được tháo bất cứ chi nào của bộ áo giáp, nếu không nó sẽ bị hư, anh hiểu rõ chứ? - Đồng ý, chúng tôi sẽ để y nguyên. - Bộ áo giáp đã dược hàn và gia cố bằng chì. Anh hãy cho nó vào thùng, nằm ngửa. - Hiểu rồi. Slater nhìn đồng hồ. - Bây giờ là hai giờ rưỡi. Có việc cần phải thực hiện đối với bộ áo giáp trước khi mang nó đi, và tôi muốn tự tay mình làm. Tôi sẽ làm xong trước bốn giờ vài phút. Anh có thể cho giở bộ áo giáp cuối cùng hết, như vậy cũng tiện hơn để anh giao về nhà tôi, trên đường về kho bãi. Địa chỉ tôi đây. Slater đưa một tờ giấy cho gã đàn ông mặc vét da. Hắn đọc kỹ, rồi cất vào túi. Rồi hắn gọi gã đàn ông mập mũi khoằm. Cả hai, Slater đi theo sau, khiêng cái thùng có hình dạng gần giống quan tài, đặt xuống sàn phòng làm việc. Slater chỉ bộ áo giáp, lập lại: - Trước bốn giờ một tí bộ áo giáp sẽ sẵn sàng để mang đi. - Rõ, gã đàn ông mặc áo da nói. Khi còn lại một mình trong văn phòng, Slater bắt tay vào công việc khó nhọc là mặc vào người bộ complê thép nặng gần 150 ký này. Vào thời xưa, đã có nhiều tay hậu cần hăng hái giúp đỡ; nhưng cảm giác hùng mạnh da diết và bất khả chiến bại mà Slater sắp có được bù lại sự khổ nhọc khi phải làm công việc đó một mình. Tất nhiên là trước tiên Slater phải tháo hoàn toàn bộ áo giáp. Slater đặt nằm xuống đất tấm ngực và tấm lưng đã nối sẵn với nhau, gỡ chỗ cài ở vai ra, rồi bò chui vào, thò đầu qua cổ áo giáp. Slater cực nhọc đứng dậy. Run rẩy do hấp tấp, Slater cài nhanh những phần che bụng và bẹn. Rồi Slater cài phần đùi trước và sau. Sau cùng hết, Slater xỏ xà cạp và giáp che thân. Slater đau đớn nỗ lực để đụng được lưng bằng cách thò cánh tay qua vai để kiểm tra xem tấm che lưng và che bụng có nằm đúng chỗ không. Slater phải ngưng tay nhiều lần để cho hai cánh tay đau nghỉ mệt và thở một chút. Slater muốn nghẹt thở vì nóng nực, thân thể ông như phình lên trong cái vỏ bọc sắt. Chỉ ý nghĩ mình có thể thất bại cũng đủ làm cho Slater hoảng hốt lên. Slater cần phải được che chắn hoàn toàn, để không một phần thân thể nào có thể bị Scudmore đánh – và cũng để đám khuân vác không nghi ngờ gì khi cho bộ áo giáp lên xe tải. Slater vật